Áng mây đã trôi về nơi xa tắp
Nhà văn Mang Viên Long (1944) quê An Nhơn, Bình Định. Ông là một trong những tác giả tên tuổi ở khu vực Nam Trung bộ với nhiều tác phẩm được công chúng yêu thích như: Trên đỉnh Sa Mù (1969), Mùa thu trống Trải (1970), Phố người (1971), Có những mùa trăng, Đóa hồng cho người yêu (1972), Biển của hai người, Hỏi lại chính mình (2006), Trái tim còn lại (2007), Ông già và con Chim Hoàng Ly (2008), Như áng mây trôi (2015)... Ông vừa qua đời ngày 22-7 vì một cơn đột quỵ tại nhà riêng, hưởng thọ 76 tuổi.
Nhà văn Mang Viên Long và tác giả Trần Trung Sáng. |
Hơn 20 năm trước, tình cờ qua mối quan hệ cộng tác với tạp chí Thời Văn (TPHCM), tôi có dịp kết nối và làm quen với Mang Viên Long. Hồi ấy, lần đầu gặp ông, tôi cảm nhận như ông vừa tìm lại cuộc sống quân bình, ổn định, sau một thời gian dài lao đao, lận đận do những biến động thời cuộc. Ông khoe và tặng tôi một vài tập truyện của ông mới được ấn hành. Qua tiếp cận, tôi thật quý mến phong cách sống khá giản dị, lạc quan và hòa nhã của ông. Từ đó về sau, nhờ có mạng Internet, chúng tôi lại thường xuyên liên lạc nhau nhiều hơn. Gần nhất, hồi tháng 9-2018, trong chuyến công tác của đoàn Hội nhà văn Đà Nẵng tại Quy Nhơn, nhà văn Mang Viên Long cùng nhà văn Trần Hữu Luận đã đón mời nhóm chúng tôi gồm: Nguyễn Nho Khiêm, Trần Trung Sáng, Mai Hữu Phước đến nhà riêng của ông chuyện trò, thù tạc, thăm hỏi hết sức chân tình. Trong câu chuyện dịp đó, nhà thơ Nguyễn Nho Khiêm còn lưu lại facebook một chi tiết thú vị: “Trên tường anh trang trí một số bức tranh tĩnh vật, đôi câu thư pháp. Tôi dừng lại câu Thư pháp viết run rẩy: "Mài văn sắc cạnh tùy duyên khởi/ Dũa khóa không manh ắt huệ thành". Tôi hỏi anh "mài văn" thì dễ hiểu vì anh viết văn, nhưng tại sao đối với "dũa khóa"?. Anh chia sẻ, trước đây anh hành nghề làm chìa khóa để mưu sinh. Người làm chìa khóa mà có tính gian thì thật nguy hiểm, nên anh luôn tự răn mình...”. Thì ra, sau năm 1975, sau khi rời khỏi công việc nhà giáo tại Tuy Hòa, Phú Yên, Mang Viên Long đã mưu sinh bằng nghề làm chìa khóa, bơm quẹt gas và sửa kính đeo mắt...
Bàn về những tác phẩm tâm đắc của mình, Mang Viên Long thường nhắc đến truyện ngắn “Dì Lucia”. Đây là truyện kể về mối tình thoáng qua của người lính, trong một lần dừng chân đóng quân gần cô nhi viện, gặp vị nữ tu thánh thiện. Là chuyện tình nhưng không một lời yêu, không một nụ hôn, không cả một cái nắm tay... Là một truyện viết về chiến tranh, nhưng không có những cảnh chết chóc bạo liệt, ngôn ngữ nhẹ nhàng, không gian thi vị, bàng bạc nỗi khát khao hòa bình của người lính và hình ảnh nàng nữ tu dịu dàng bảng lảng dưới vạt nắng chiều...
Tác giả Ban Mai trong bài viết “Mang Viên Long- Một thế hệ buồn” nêu nhận định: “Mang Viên Long là nhà văn trung thành với lối viết cổ điển, thiên về hiện thực. Thời gian trong truyện của ông thường là thời gian tuyến tính, không gian là những miền quê nghèo khó trên dải đất miền Trung. Với giọng văn mộc mạc bình dị nhà văn kể về những cuộc đời bé mọn của kiếp người. Đặc biệt hệ lụy của chiến tranh bàng bạc trong từng phận người, chúng ta có thể tìm thấy trong Nỗi khổ không rời, Hai trường hợp một cuộc tình, Trên đỉnh tháp chuông, Mấy ngày trước giáng sinh... hoặc những chuyện tình luôn có kết thúc tan vỡ trong Bóng mây ngày cũ, Quán café Tulip, hay tìm lại một thời đã qua trong Ngôi nhà mùa hè. Đọc truyện của Mang Viên Long, điều đọng lại trong tôi là một chữ tình, mặc dù nhân vật chính của ông lúc nào cũng là kẻ thất thế, người thua cuộc, mang nặng nỗi buồn, với một cuộc đời cô độc, nghèo khó, không gia đình, mồ côi cha mẹ... tuy nhiên, không phải vì vậy mà ông nhìn đời với lòng thù hận, trái lại là một tấm lòng “thàng hậu” của người dân xứ Nẫu”.
Một điều đáng chú ý, đến khi gần tới tuổi 70, một trong những cảm hứng lớn của Mang Viên Long là gần như dành trọn hứng thú chữ nghĩa cho việc chia sẻ về Phật pháp. Trong hồi ký Như áng mây trôi, ông viết: “Từ ngày tháng có duyên gặp được “Kinh Pháp Bảo Đàn” của Lục Tổ Huệ Năng, tôi dần cảm thấy giảm đi rất nhiều nỗi ưu phiền, khổ đau! Tôi cũng nhận ra lòng an bình, tỉnh táo, không còn nhiều âu lo, băn khoăn hay toan tính cho ngày mai mờ mịt phía trước nữa!”. Tác giả Nguyễn Thị Thanh Xuân (Trường Đại học KHXH và NV TPHCM) trong bài viết “Phật tính trong trang viết Mang Viên Long” cũng nêu rõ: “Như những giọt sương (1, 2, 3, 2012, 2013, 2014), Tôi đến với Phật (Tiểu luận và tạp bút, 2014) nói đến “duyên ngẫu nhiên mầu nhiệm”, Như áng mây trôi (hồi ký, 2015) tái hiện hành trình làm người với duyên tu tập và duyên chữ nghĩa; Đôi bờ nhân duyên (2018) là truyện dài được xây dựng trên cảm hứng về Ni sư Thích Nữ Trí Hải (1938-2003) và rất nhiều bài đăng rải rác xen kẽ trong những tập sách khác... Những trang sách này có thể cung cấp cho chúng ta những dữ liệu cụ thể về hoạt động nhà văn Phật tử Huệ Thành- Mang Viên Long, đặc biệt là giúp ta cắt nghĩa lý do, điều kiện nào nhà văn đến với Phật. Có thể nói, Phật tính nơi những trang viết này trỗi lên trên bình diện ý thức, với những diễn giải trực tiếp về tư tưởng nhà Phật”.
Hàng ngày vào mỗi buổi sáng, hầu như những người bạn thân quen với nhà văn Mang Viên Long trên facebook đều nhận được từ ông những bài viết ngắn hoặc lời mời “trà và cà phê hiên nhà” cùng những lời chúc tụng tốt lành. Nhưng giờ đây, tất cả đã trở thành áng mây trôi về nơi xa tắp. Do vậy tôi sẽ nhớ mãi status (stt) cuối cùng của ông ghi ngày 22-7-2020: “Nếu người có tâm hồn, trí tuệ, luôn tôn trọng đạo lý, nhân cách, nhân quả (...) làm theo việc tốt, điều thiện lành; mang niềm vui, tin yêu, lợi ích đến cho mọi người, là rất khó, mà đôi khi còn bị kẻ xấu gièm pha, phá phách – cho nên, làm việc tốt- điều thiện, đôi lúc phải cần có sự dũng cảm và hy sinh”.
Trần Trung Sáng