Báo Công An Đà Nẵng

Bác Hồ với mảnh đất địa đầu giới tuyến Vĩnh Linh

Thứ năm, 20/05/2021 21:31

Chiếc máy cày Bác Hồ tặng Vĩnh Kim năm 1959 được gìn giữ tại bảo tàng xã.  Ảnh: Tư liệu

Năm 1957, khi đôi bờ Nam- Bắc vừa bị chia cắt, từ Thủ đô Hà Nội, Bác Hồ đã vào thăm đồng bào, cán bộ, chiến sĩ tỉnh Quảng Bình. Từ Đồng Hới nhìn về phương nam, Bác rất muốn vào thăm Vĩnh Linh để Bác được gần hơn với đồng bào miền Nam ruột thịt. Do điều kiện không vào được, Bác đã triệu tập một số cán bộ chủ chốt của Khu vực Vĩnh Linh ra Quảng Bình gặp Bác. Đảng ủy, Ủy ban Khu vực Vĩnh Linh đã sung sướng cử một đoàn đại biểu hơn ba trăm người đến với Bác. Trong cuộc gặp này, Bác đã chuyển lời thăm hỏi ân cần của Bác đến toàn thể đồng bào, cán bộ, chiến sĩ Vĩnh Linh. Bác chúc đồng bào, cán bộ, chiến sĩ Vĩnh Linh chắc tay súng, vững tay cày, chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi. Và Bác không quên gửi đến đồng bào, cán bộ, chiến sĩ Vĩnh Linh những tình cảm yêu thương nồng nàn của Bác. Bác căn dặn: 

"Quảng Bình, Vĩnh Linh ở tuyến đầu miền Bắc, tiếp giáp với miền Nam, mọi việc làm tốt hay xấu của các cô, các chú đều ảnh hưởng đến miền Nam, đều có ý nghĩa đến việc bảo vệ miền Bắc. Nếu kẻ địch có hành động liều lĩnh gì thì Quảng Bình, Vĩnh Linh phải đương đầu với chúng trước hết và phải bảo đảm đánh thắng chúng trước hết... Các cô, các chú phải chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang, nhất là dân quân tự vệ...".

Năm 1959, sau khi đi thăm các nước trong phe xã hội chủ nghĩa trở về, Bác đã tặng cho cán bộ và nhân dân xã Vĩnh Kim của Vĩnh Linh một chiếc máy cày mà một hợp tác xã ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Tiệp Khắc đã tặng cho Bác.

Tặng máy cày cho Vĩnh Kim là vì Bác vui mừng, xúc động khi biết Vĩnh Kim rất hăng hái trong phong trào xây dựng hợp tác hóa; là vì Bác biết Vĩnh Kim tuy đất ruộng cằn cỗi, thiếu nước vẫn tích cực thâm canh, làm thủy lợi, đạt năng suất 5 tấn thóc một héc-ta mỗi vụ. Tặng máy cày cho Vĩnh Kim là vì Bác mong muốn nhân dân Vĩnh Kim nói riêng, nhân dân Vĩnh Linh nói chung, hãy ra sức thi đua lao động sản xuất, khai phá thật nhiều đất hoang, cấy nhiều lúa, trồng nhiều tiêu để xây dựng Vĩnh Kim, xây dựng Vĩnh Linh giàu mạnh, đứng vững trên địa đầu giới tuyến, xứng đáng là lũy thép kiên cường, là tiền đồn vững chắc của miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Chiếc máy cày ấy cho đến nay đã 60 năm trôi qua, cán bộ và nhân dân Vĩnh Kim vẫn lưu giữ như một báu vật.

Nhìn xa trông rộng, thấy trước những điều có thể xảy ra là tầm cao trí tuệ của Bác. Vào những năm đầu thập kỷ sáu mươi, đế quốc Mỹ ngày càng bộc lộ dã tâm xâm lược miền Nam, kiếm cớ leo thang đánh phá miền Bắc. Trong tình hình đó, Bác biết Vĩnh Linh rồi sẽ trên bom dưới đạn, rồi sẽ ác liệt hơn bất cứ nơi nào. Vì vậy nên ngay từ những năm 1963- 1964, Bác đã chỉ thị cho Khu ủy Vĩnh Linh phải ngay từ bây giờ  cần huy động sức dân đào hầm trú ẩn. Bác nhấn mạnh là phải thiết lập cho bằng được trong lòng đất Vĩnh Linh một hệ thống hầm hào, địa đạo thật dày đặc, thật kiên cố, thì Vĩnh Linh mới có thể chống chọi được với bom đạn của kẻ thù, để bảo vệ tính mạng của nhân dân và bám trụ đánh Mỹ lâu dài được.

Vâng lời Bác, Khu ủy Vĩnh Linh đã cho bổ nhát cuốc đào địa đạo đầu tiên tại xã Vĩnh Giang. Và chỉ trong vòng 5 năm, từ năm 1963 đến năm 1968, trên toàn địa bàn khu vực Vĩnh Linh đã có cả thảy 114 địa đạo lớn nhỏ được lần lượt ra đời, trong đó có địa đạo Vịnh Mốc, thuộc xã Vĩnh Thạch được thiết kế quy mô với tổng chiều dài trên 1.700 mét. Hệ thống địa đạo Vĩnh Linh đã không những che chở cho nhân dân mà còn giúp bộ đội, dân quân Vĩnh Linh kiên cường bám trụ chiến đấu trong suốt những năm giặc Mỹ đánh phá Vĩnh Linh, đánh phá miền Bắc.

Một ngày tháng sáu trong ngôi nhà sàn ở Thủ đô Hà Nội, lòng Bác thắt lại quặn đau khi nghe tin vào lúc 9 giờ ngày 20-6-năm 1966, máy bay B52 của Mỹ ném bom, phá sập một góc địa đạo xã Vĩnh Quang làm 61 người, chủ yếu là phụ nữ và trẻ em bị chết. Và Bác đã khóc khi nghe ông Dương Tốn, lúc đó là Chủ tịch Ủy ban hành chính Khu vực Vĩnh Linh ra Hà Nội họp, đến báo cáo với Bác.

Trong những năm chiến tranh lên đến tột đỉnh ác liệt, cùng với việc chỉ đạo, động viên quân dân Vĩnh Linh bắn rơi thật nhiều máy bay Mỹ, Bác đã họp bàn với Bộ Chính trị cho sơ tán tất cả đồng bào Vĩnh Linh ra các tỉnh phía bắc để tránh sự hủy diệt của bom đạn Mỹ. Bác đã trực tiếp giao cho Bộ Quốc phòng và Bộ Công an thực hiện nhiệm vụ đặc biệt này. Khi nghe tin người già, phụ nữ và trẻ em Vĩnh Linh đã sơ tán ra đến Nghệ An, quê hương của Bác, Bác đã trực tiếp điện cho hai ông Võ Thúc Đồng, Bí thư Tỉnh ủy và Chu Mạnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An căn dặn lãnh đạo tỉnh phải sắp xếp, bố trí nơi ăn ở cho nhân dân Vĩnh Linh thật chu đáo. Hai cái Tết cuối cùng là Tết Mậu Thân và Tết Kỷ Dậu, trước lúc đi xa, Bác đều điện hỏi các đồng chí lãnh đạo tỉnh Nghệ An để biết xem đồng bào K10 (tức nhân dân Vĩnh Linh) sinh sống, sản xuất, học tập ra sao? Đồng bào có bánh tét, thịt lợn, bánh kẹo... ăn Tết không? Bác chỉ thị cho Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An phải tổ chức cho đồng bào Vĩnh Linh ăn Tết thật đầy đủ, chu đáo. Đối với các cháu K8 (tức học sinh Vĩnh Linh) ở các tỉnh Bắc Bộ, thỉnh thoảng Bác cũng gửi thư thăm. Bác mong các cháu dù phải sống xa quê hương, gia đình nhưng cũng phải luôn luôn vui vẻ, thi đua học tập tốt, thực hiện 5 điều Bác dạy.

Thực hiện lời Bác dạy, vượt lên những mất mát, thương đau trước đạn bom tàn khốc của kẻ thù, cùng với quân dân cả nước, quân dân Vĩnh Linh đã anh dũng chiến đấu đập tan cuộc chiến tranh phá hoại quy mô và tàn bạo của đế quốc Mỹ. Đã độc lập chiến đấu, hợp đồng chiến đấu, bắn rơi 293 máy bay, trong đó có 7 chiếc B52, bắn chìm và bắn cháy 69 tàu chiến các loại của Mỹ. Cồn Cỏ- đảo nhỏ anh hùng, cũng đã góp phần bắn cháy 48 máy bay và hàng chục tàu chiến. Mỗi một chiến công của quân dân Vĩnh Linh đều có sự cổ vũ, khích lệ của Bác mà làm nên. 

Vĩnh Linh vinh dự là địa phương cấp tỉnh đầu tiên của miền Bắc xã hội chủ nghĩa được Bác ký quyết định phong tặng danh hiệu Anh hùng. Trong 4 năm, từ năm 1965 đến năm 1968, Bác đã 8 lần viết thư khen ngợi thành tích chiến đấu của quân dân Vĩnh Linh và bộ đội đảo Cồn Cỏ. Có một điều đặc biệt, ấy là trong 8 bức thư gửi quân dân Vĩnh Linh, bao giờ Bác cũng nhắc tới đồng bào Vĩnh Linh trước tiên, kế đó là chiến sĩ, rồi mới tới cán bộ Vĩnh Linh. Điều này thể hiện quan điểm của Bác, ấy là bất kể việc gì, nhân dân phải là trên hết.

Đến nay, dù đã hơn 50 năm Bác đi xa, nhưng những tình cảm yêu thương của Bác, sự quan tâm chỉ bảo của Bác, vẫn mãi mãi nồng ấm và tỏa sáng trong lòng mỗi người dân Vĩnh Linh, thúc giục Vĩnh Linh tiếp nối truyền thống anh hùng trong chiến đấu, thành sức mạnh trong lao động sản xuất để xây dựng một Vĩnh Linh giàu đẹp như ngày nào Bác hằng mong đợi.

NGUYỄN NGỌC CHIẾN