Báo Công An Đà Nẵng

Bác sĩ Đặng Thùy Trâm và những người lính tàu không số

Thứ năm, 04/08/2016 10:35

(Cadn.com.vn) - Cuốn “Nhật ký Đặng Thùy Trâm” nổi tiếng trong nước và được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Phim “Đừng đốt” của đạo diễn-Nghệ sĩ nhân dân Đặng Nhật Minh dựa trên “Nhật ký Đặng Thùy Trâm” cũng làm xúc động lòng người trong và ngoài nước.  Đặng Nhật Minh là người Huế, Đặng Thùy Trâm cũng là người  Huế. Hai tâm hồn Huế họ Đặng ấy, bằng chính cuộc đời và tài năng của mình, đã làm  nên tác phẩm điện ảnh chân thật, lý trí và cuốn hút vô cùng. Tất cả những điều đó mọi người đều biết. Nhưng một điều có lẽ nhiều người chưa biết là bác sĩ Đặng Thùy Trâm cũng đã từng chữa bệnh cho các chiến sĩ tàu không số ở cái trạm xá nhỏ bé của mình ở Quảng Ngãi trong chiến tranh. Đọc sách “Lịch sử Đường Hồ Chí Minh trên biển”, tôi thật xúc động về cuộc gặp  gỡ cơ duyên này...

Ảnh bác sĩ Đặng Thùy Trâm chụp trong chiến trường.

Câu chuyện bắt đầu từ nửa đêm 27-2-1968, con tàu C43B rời cảng A3 (Hải Khẩu, Trung Quốc) gồm 17 cán bộ chiến sĩ do thuyền trưởng Hồ Đức Thắng cùng Trần Ngọc Tuấn, người Quảng Nam, chính trị viên, hai thuyền phó Nguyễn Văn Thơm, Nguyễn Văn Đức xuất bến chở  37 tấn  vũ khí vào bến Ba Làng An, Quảng Ngãi. Trước đó, ngày 14-3-1967, trong chuyến chở hàng vào Sa Kỳ (Quảng Ngãi) gặp địch, đội tàu C43B đã chiến đấu anh dũng và buộc phải hủy tàu để giữ bí mật con đường, sau đó họ theo đường Trường Sơn về đơn vị. Bây giờ cũng đội tàu đó được nhận tàu mới, trở lại Quảng Ngãi.

 Nửa đêm 29-2, khi tàu vào cách bờ 12 hải lý thì gặp 6 tàu địch bao vây, nổ súng bắn tới tấp. Trên không, mấy chiếc trực thăng quần đảo, bắn  rốc-két  xuống tàu. Thuyền trưởng Thắng ra lệnh cho anh em tập trung hỏa lực chiến đấu, vừa bắn trả vừa cơ động nhanh vào bờ. Một máy bay lên thẳng của địch trúng đạn rơi xuống biển. Một chiếc máy bay khác bị thương lao vào bờ. Một tàu chiến địch tiến gần vào tàu ta bị trúng đạn ĐKZ bốc cháy. Thấy bị  chống trả  dữ dội, tàu địch giãn ra. Lợi dụng thời cơ, thuyền trưởng cho tàu chạy lên hướng bắc thì lập tức bị 2 tàu địch lao tới đánh chặn. Tàu C43B quay ngoắt 180 độ, chạy về hướng nam nhưng vẫn bị  tàu chiến và máy bay địch chặn lại. Không thể mở vòng vây, tàu ta vừa tránh đạn vừa bắn trả địch và tăng tốc chạy vào gần bờ. Suốt mấy giờ quần nhau với địch đông gấp nhiều lần, tàu ta bị đạn địch găm thủng nhiều chỗ. Chiến sĩ hàng hải Vũ Văn Ruệ và y tá Võ Nho Tòng hy sinh, nhiều đồng chí bị thương nặng. Trước tình thế cam go, nhận định nếu tiếp tục đánh trả sẽ có thêm nhiều đồng chí hy sinh và địch có khả năng cướp tàu, Chi ủy quyết định cho mọi người khẩn trương bơi lên bờ và hủy tàu. Thuyền trưởng Nguyễn Đức Thắng phân công chính trị viên Tuấn đưa thương binh, liệt sĩ vào bờ, hai thuyền phó Thơm và Đức cùng thuyền trưởng ở lại hủy tàu, hủy tài liệu. Khi tàu vừa được điểm hỏa, Phạm Văn Rai nhảy xuống biển thì trúng đạn địch hy sinh... Ba đồng chí hy sinh được chuyển vào bờ. Còn 12 CBCS bị thương được du kích và bà con xã Phổ Thiện cấp cứu, bảo vệ, đưa vào hầm bí mật từng gia đình che giấu, tránh sự truy lùng gắt gao của địch. Hơn một tuần sau, du kích địa phương vừa chiến đấu vừa nghi binh địch, đưa 14 chiến sĩ tàu không số C43B bị thương vượt Quốc lộ 1A chuyển lên vùng căn cứ Ba Tơ. Các thương binh được anh em du kích cáng lên bệnh xá, nhưng hai đêm liền đều gặp phục kích phải quay lại, đêm thứ ba mới thoát được. Gần hai ngày xuyên rừng, chiều tối hôm sau các anh mới được đưa vào điều trị tại trạm xá dân y H. Đức Phổ ở giữa khu rừng thưa, cây cối loang lổ, khô héo vì địch rải chất độc hóa học. Đây là bệnh xá của bác sĩ Đặng Thùy Trâm. Nhìn thấy 14 người bị thương được chuyển tới, chị không nói gì nhưng biết chúng tôi là dân đường mòn bí mật biển Đông. Chị bảo: “Các anh phải ở lại đây đã, chưa được đi đâu hết. Phải chữa cho lành các vết thương. Rồi bồi dưỡng cho lại sức để còn leo Trường Sơn”. Bệnh xá đói, chị Trâm và các nhân viên của chị cũng đói. Nhưng chúng tôi vẫn được nuôi rất chu đáo.

Trong truyện “Con đường mòn trên biển Đông”, thuyền trưởng tàu C43B Nguyễn Đức Thắng kể: “Đến lúc đó tôi mới hiểu. Thì ra giữa chiến tranh, một vùng đất quá ác liệt... Nhưng một cái bệnh xá huyện thì không thể lánh đi đâu được cả, đơn giản chỉ vì nó là một cái bệnh xá. Nó phải có mặt ở đó bất cứ lúc nào, trụ bám ở đó, vì thương binh, vì những người dân bị thương, cả bị bệnh nữa, bất cứ lúc nào. Mà Đức Phổ lúc bấy giờ là một trong những huyện ác liệt nhất ở chiến trường Khu 5. Sư đoàn không vận số 1 Mỹ quần nát ở đó, rồi lữ 196 Mỹ, sư dù 101 Mỹ, có thời gian cả bọn sư 25 Anh Cả Đỏ Mỹ cũng ra đó. Rồi Rồng Xanh, Bạch Mã Nam Triều Tiên, rồi sư 2, sư 22, sư 23 ngụy, thủy quân lục chiến, quân dù ngụy. B52 dầm nát một vùng bán sơn địa ngang dọc chỉ vài chục cây số... Thế mà trên cái vùng đất ghê gớm, suốt hàng chục năm trời vẫn trụ bám một cái bệnh xá huyện nhỏ nhoi, gan lì, bất khuất. Chỉ huy bệnh xá ấy là một cô gái, một cô bác sĩ trẻ người Hà Nội. Năm ấy chị chưa đến 30 tuổi. Tên chị là Trâm. Chị là chỉ huy cái bệnh xá ấy, trụ bám đến gan lì, bền bỉ suốt mấy năm trời trên vùng đất hẹp đã bị đánh nát như băm ấy...”. 

Còn thủy thủ Lưu Công Hào thì kể: “Những ngày ở trạm xá, chị viết lưu bút cho người lính trẻ là tôi mà chị coi như đứa em trai. Chị Trâm viết  trong ngày 28-3-1968 . Bức thư này hiện được lưu giữ tại Bảo tàng Hải quân Việt Nam:

28-3-68

Hào, em thương quý.

Gặp em chị như thấy lại cả quê hương trong đôi mắt nhìn thắm thiết, trong giọng nói quen thân, trong tiếng cười ấm áp của em. Muốn nói cho em nghe tất cả từ nỗi nhớ, niềm thương của một người con xa quê, đến sự sung sướng tự hào vì được gặp em trong cuộc chiến đấu vĩ đại này và những suy nghĩ về riêng tư của chị nữa... Nhưng có lẽ có dịp nào đó chị sẽ viết thư nói cho em nghe, nếu như ra đi em vẫn còn nhớ, còn thương người chị  MB (Miền Bắc-P.V) này. Bây giờ thời gian ngắn ngủi chị chẳng biết nói gì cho đủ, gửi vào trang sổ nhỏ này tình thương đậm đà như màu đất quê hương của chị. Hãy gìn giữ lấy nó nghe em. Mong ước một ngày không xa nữa, chị sẽ đến Đồ Sơn nghỉ mát và... 1 buổi chiều nào đó trên bãi biển Đồ Sơn chị lại được gặp em, được nắm tay em (cánh tay đau đã làm em mất ngủ mấy đêm ở trạm này lúc ấy đã lành từ lâu rồi em nhỉ)

Nhớ gửi thư nhiều cho chị nghe em”...

Sau một tháng điều trị, vết thương đã dần khỏi, anh em C43B được lệnh gấp rút lên đường vượt Trường Sơn ra Bắc về đơn vị để đi những chuyến tàu mới. Trước khi anh em lên đường, chị Thùy Trâm và anh em trong trạm xá Đức Phổ đã khâu những mảnh dù của Mỹ thành ba lô, túi xách, ruột tượng và chuẩn bị áo quần, gạo, muối, thuốc men cho các thủy thủ đi đường. Ngày chia tay, chị nắn nót ghi vào cuốn sổ nhỏ của Lưu Công Hào ngoài những dòng lưu bút là địa chỉ của người em gái Đặng Phương Trâm, địa chỉ gia đình để anh lính trẻ khi về đến Hà Nội sẽ ghé thăm... Sau ba tháng vượt Trường Sơn, những người lính đã về đến hậu phương, nhưng công việc của những người lính tàu không số luôn bí mật nên anh Lưu Công Hào không thể đến thăm gia đình chị và cô em gái Phương Trâm như chị dặn dò...

Ngô Minh