Chuyển đổi số- xu thế tất yếu
Hội nghị có sự tham dự của Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Hòa Bình; Thượng tướng Lương Tam Quang- Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an; Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn; các đồng chí Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; lãnh đạo các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Tại điểm cầu Đà Nẵng, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy Nguyễn Văn Quảng và Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng Lê Trung Chinh đã cùng tham dự.
Đánh giá về dịch vụ công trực tuyến, Bộ Thông tin và Truyền thông cho biết, Việt Nam đã trải qua 2 giai đoạn phát triển về dịch vụ công trực tuyến (DVCTT) tính từ năm 2011 đến nay. Trong đó, giai đoạn 1 là giai đoạn khởi động khi số lượng DVCTT mức cao được triển khai rất ít trên phạm vi cả nước; giai đoạn 2 là giai đoạn phát triển theo chiều rộng, khi có bước phát triển đột phá về số lượng DVCTT. Một số địa phương đạt tỉ lệ rất cao lên tới 69%, DVCTT toàn trình mang lại hiệu quả thực sự khi mà người dân, doanh nghiệp có thể thực hiện đơn giản, thuận tiện toàn bộ quy trình trên môi trường mạng và không phải hiện diện tại cơ quan Nhà nước, thể hiện thông qua tỉ lệ hồ sơ trực tuyến toàn trình. Để bước vào giai đoạn 3- phát triển theo chiều sâu, cần tập trung vào phổ cập DVCTT toàn trình tới mọi người dân, doanh nghiệp, mục tiêu đặt ra là tỉ lệ hồ sơ trực tuyến toàn trình đạt 70%. Hoàn thành phổ cập dịch vụ công trực tuyến toàn trình, Việt Nam sẽ hoàn thành nhiệm vụ phát triển Chính phủ điện tử, chuyển sang phát triển Chính phủ số. Để triển khai DVCTT trong giai đoạn mới, phát triển theo chiều sâu, thực chất là phổ cập DVCTT theo hướng trực tuyến toàn trình, các bộ, ngành, địa phương cần đạt mục tiêu phát triển dịch vụ công trực tuyến toàn trình ngay trong năm 2024 và đến năm 2025. Theo đó, năm 2024, với các bộ, ngành: tỉ lệ hồ sơ trực tuyến toàn trình đạt tối thiểu 70%; đối với các địa phương: đạt tối thiểu 30%. Năm 2025, đối với các bộ, ngành: tỉ lệ hồ sơ trực tuyến toàn trình đạt tối thiểu 85%; đối với các địa phương: đạt tối thiểu 70%.
Theo báo cáo Bộ Thông tin và Truyền thông, cơ quan thường trực Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số, tính đến tháng 7/2024, tỉ lệ DVCTT toàn trình của TP Đà Nẵng cao nhất cả nước với 95% (trung bình tỉnh thành là 55%); tỉ lệ hồ sơ trực tuyến toàn trình là 65% (trung bình tỉnh thành là 17%). Tỉ lệ số hóa, cấp kết quả thủ tục hành chính (TTHC) số đạt 64% tính đến thời điểm hiện tại, trong đó 100% kết quả mới (năm 2023 và đến 7/2024) đã được số hóa đưa vào Kho kết quả TTHC. Gần 260.000 người dân trưởng thành có tài khoản công dân số và 1 kho dữ liệu số trên Hệ thống chính quyền, đạt tỉ lệ khoảng 50%.
Tại Hội nghị, Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng Lê Trung Chinh chia sẻ một số giải pháp nâng cao hiệu quả cung cấp dịch vụ công trực tuyến tại TP Đà Nẵng. Theo đó, Đà Nẵng đã và đang triển khai nhiều giải pháp mới. Thông qua Nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố, đề án, kế hoạch triển khai chuyển đổi số hằng năm và văn bản chỉ đạo điều hành, TP quán triệt trách nhiệm người đứng đầu các cơ quan, địa phương. Bắt đầu từ năm 2019, lãnh đạo TP đã chỉ đạo các cơ quan triển khai chính giảm thời gian xử lý hồ sơ trực tuyến để khuyến khích người dân sử dụng, giảm thời gian xử lý đến 50% đối với Dịch vụ công trực tuyến (DVCTT) so với xử lý hồ sơ trực tiếp; yêu cầu các cơ quan Nhà nước phải sử dụng DVCTT của cơ quan khác; giao chỉ tiêu DVCTT cho từng cơ quan. Đến nay, các cơ quan, địa phương đã triển khai chính sách giảm thời gian xử lý hồ sơ đối với DVCTT, trong đó có 128 thủ tục hành chính (TTHC) chiếm 7% TTHC được giải quyết trong ngày. Đặc biệt, Đà Nẵng đã triển khai DVCTT toàn trình (mức cao nhất) cho nhiều TTHC. Hệ thống đã kết nối với nền tảng công dân số, kho kết quả TTHC số (của cá nhân và TP) và các cơ sở dữ liệu chuyên ngành để sử dụng dữ liệu số, triển khai được nhiều DVCTT toàn trình (đạt 95% trong tổng số TTHC). Cùng với đó, Đà Nẵng cũng đa dạng hóa kênh/đối tượng nộp hồ sơ trực tuyến, không chỉ các cơ quan, địa phương phải sử dụng DVCTT, TP còn huy động doanh nghiệp thuộc phạm vi quản lý của ngành, địa phương ưu tiên sử dụng DVCTT; triển khai mô hình "đại lý DVCTT" hay bưu điện/bưu cục nhận, nộp hồ sơ trực tuyến thay người dân, doanh nghiệp (hiện nay đang hỗ trợ, không thu phí); triển khai mô hình tổ công nghệ số cộng đồng, "thôn/tổ điện tử", "đi từng ngõ, gõ từng nhà" tuyên truyền hướng dẫn người dân sử dụng DVCTT theo hướng cụ thể, hiệu quả…
Phát biểu chỉ đạo tại buổi Hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính đánh giá chuyển đổi số đã trở thành xu thế tất yếu, yêu cầu khách quan và lựa chọn chiến lược của nhiều quốc gia. Trong chuyển đổi số, Việt Nam xác định cách tiếp cận toàn cầu, toàn diện, toàn dân nhưng có trọng tâm, trọng điểm, lấy người dân làm trung tâm, làm chủ thể. Cả phía quản lý Nhà nước, cung cấp dịch vụ công và phía đối tượng thụ hưởng, sử dụng dịch vụ công đều phải vận dụng chuyển đổi số đạt hiệu quả cao nhất. Tư duy, hành động, thói quen của cơ quan hành chính các cấp và người dân, doanh nghiệp trong thực hiện các thủ tục hành chính chuyển dần từ giấy tờ truyền thống sang môi trường mạng, giúp nâng cao hiệu quả và năng suất các hoạt động kinh tế, xã hội. Từ phong trào, xu thế này đã xuất hiện nhiều bộ, ngành, địa phương triển khai quyết liệt, có những mô hình hay, cách làm sáng tạo, hiệu quả trong chuyển đổi số nói chung, cung cấp dịch vụ công trực tuyến nói riêng.
Bên cạnh những kết quả rất cơ bản, còn có những tồn tại, hạn chế liên quan tới tư duy, nhận thức, hành động về chuyển đổi số, có nơi, có lúc chưa như mong muốn, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn; hạ tầng số chưa đồng bộ, có nơi, có lúc còn khó khăn, nhất là vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; hiệu quả triển khai dịch vụ công trực tuyến chưa đạt như kỳ vọng, (mới chỉ 17% hồ sơ ở địa phương được xử lý trực tuyến toàn trình)… việc triển khai dịch vụ công trực tuyến phải đối mặt, giải quyết những thách thức rất lớn như phải đáp ứng yêu cầu ngày càng nhiều, đòi hỏi ngày càng cao của hệ thống hành chính các cấp và người dân, doanh nghiệp trong sử dụng dịch vụ công trực tuyến trong quá trình vận động, phát triển rất nhanh của các hoạt động kinh tế, xã hội; cần số hóa một lượng lớn thông tin giấy tờ; nguồn lực Nhà nước có hạn, do đó phải huy động nguồn lực xã hội, sức mạnh bắt nguồn từ người dân, doanh nghiệp bằng tư duy, tầm nhìn, đổi mới sáng tạo; phát triển sản phẩm công nghệ số Việt Nam trước hết phải phục vụ tốt nhu cầu của người Việt Nam rồi vươn ra khu vực và thế giới. Lê Anh Tuấn