Đề xuất giải pháp xử lý môi trường biển miền Trung
(Cadn.com.vn) - Kết quả đánh giá hiện trạng môi trường biển 4 tỉnh do Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố ngày 22-8 cho thấy, biển miền Trung đang phục hồi. Minh chứng là qua phân tích 1.080 mẫu (tháng 5), 331 mẫu (tháng 6), 68 mẫu kiểm chứng (tháng 8) và so sánh đối chiếu với quy chuẩn Việt Nam, các thông số lý - hóa, dinh dưỡng, kim loại nặng cơ bản đều trong giới hạn cho phép, đảm bảo an toàn với vùng bãi tắm, thể thao dưới nước, nuôi trồng thủy sản. Tuy vậy, tại 3 khu vực cách bờ 1,5km gồm khu vực Sơn Dương - Hà Tĩnh (rộng khoảng 300km2), cửa Nhật Lệ - Quảng Bình (khoảng 330km2), hòn Sơn Chà - Thừa Thiên - Huế (khoảng 160km2), do chịu tác động của dòng xoáy cục bộ nên một số thông số môi trường cao hơn các khu vực khác, nhưng vẫn nằm trong giới hạn cho phép, cần tiếp tục được giám sát và quan trắc thường xuyên.
Theo GS-TS Mai Trọng Nhuận, Đại học Quốc gia Hà Nội thay mặt cho nhóm chuyên gia nghiên cứu đánh giá môi trường biển sau sự cố môi trường biển: Tuy hàm lượng phenol và xyanua giảm đến mức an toàn, các thông số khác đều giảm theo thời gian, nhưng vẫn cần tiếp tục nghiên cứu, đánh giá mới khẳng định được chính xác thời điểm biển khôi phục như xưa.
TS Friedhelm Schroeder (Đức), là thành viên nhóm nghiên cứu cho rằng kết quả quan trắc cho thấy xyanua qua thời gian đã sạch; phenol vẫn còn nhưng có chiều hướng giảm dần và nằm trong ngưỡng cho phép. Nhưng vẫn còn một số hố, bẫy thủy lực cần giám sát thêm để theo dõi thông số phenol chìm sâu dưới đáy thay đổi như thế nào. “Cho dù cá nhỏ đã quay trở lại vùng biển 4 tỉnh miền Trung, nhưng khi được hỏi người dân đã có thể ăn hải sản đánh bắt ở khu vực này hay chưa, Bộ Y tế cần giám sát kỹ trước khi đưa ra những khuyến cáo cụ thể”- Tiến sĩ Friedhelm Schroeder lưu ý.
TS Lê Văn Cát, Viện Hóa học - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam khẳng định không cần áp dụng công nghệ làm sạch biển vì điều đó không thể thực hiện được. Vì công nghệ làm sạch biển nếu hiểu theo nghĩa áp dụng các biện pháp giúp loại bỏ hết yếu tố gây hại cho cá thì hiện nay không hề có. Mà chỉ nên quan sát xem biển tự hồi phục đến mức độ nào vì biển có khả năng tự làm sạch, từ đó công bố khi nào có thể ăn cá, tôm, sò hến...Vì vậy nên theo dõi và đánh giá mà không áp dụng các biện pháp cưỡng bức hay dùng công nghệ can thiệp. Thực tế cho thấy qua 4 tháng nên các lớp chất độc mỗi ngày một mỏng đi do bị sóng đánh, còn độc tố bám trên chất rắn cũng bị phân hủy dần mỗi ngày.
Đồng quan điểm với TS Lê Văn Cát, bàn về các giải pháp làm sạch môi trường biển bị ô nhiễm, PGS – TS Trịnh Văn Tuyên, Viện trưởng Viện Công nghệ Môi trường - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam khẳng định: Biển tự hấp phụ và tự động nhả hấp phụ, nồng độ chỗ nào cao, tự chuyển sang nơi có nồng độ thấp. Độc tố sẽ hòa tan dần dần và giảm đi theo thời gian. Trong môi trường nước, kể cả trong nước biển, vi sinh tự phân hủy được. Nếu kết quả khảo sát hàm lượng chất độc trong biển không còn nhiều, theo thời gian biển có thể tự làm sạch. Hệ sinh thái sẽ tự hồi phục và rất nhanh bởi dòng chảy đáy là đới ven bờ và liên tục từ Bắc đến Nam (mức độ ô nhiễm chủ yếu là ở đới ven bờ và lan ra đến độ sâu khoảng 30m). Việc phục hồi này không cần phải can thiệp mà thiên nhiên sẽ làm.
Hiện có ý kiến cho rằng để xử lý thu hồi chất độc hại cần phải hút trầm tích ở đáy biển lên. Song nhiều nhà khoa học nhận định điều này là không tưởng. Do các chất độc tố không tập trung vào một chỗ mà phát tán toàn bộ đới biển ven bờ từ Hà Tĩnh vào đến Thừa Thiên - Huế, các chất này nằm ở trầm tích sét (trầm tích keo). Muốn hút được phải biết các chất này nằm ở đâu? Trong khi đó từ Hà Tĩnh cho đến Đà Nẵng có quá nhiều sông ngòi. Vật liệu phù sa ở trên núi được đưa ra biển có đất sét, cát... Dòng chảy ven bờ bao giờ cũng đi từ Bắc đến Nam. Các loại vật liệu này nặng nên nó sẽ trôi nổi dưới đáy biển.
GS Nguyễn Tác An, nguyên Viện trưởng Viện Hải dương học cho biết, đặc điểm của vùng biển nhiệt đới là có khả năng tự làm sạch khá cao. Cơ chế tự làm sạch của biển được thực hiện qua 3 quá trình. Thứ nhất, các chất độc như phenol, xyanua sẽ trôi và pha loãng do dòng chảy hoặc mưa xuống. Thứ hai là nhờ cơ chế hóa học với các phản ứng tự nhiên giúp chuyển hóa từ chất này sang chất kia. Thứ ba là quá trình quang hóa khiến các chất ô nhiễm tự chuyển hóa hoặc phân hủy. Nhưng khả năng tự làm sạch của biển có giới hạn, khả năng này chỉ phát huy hiệu quả tốt nhất với các ô nhiễm phát sinh trong tự nhiên chứ không phải với chất độc do con người tạo ra. Để biển sạch, không thể chỉ dựa vào khả năng của biển, mà con người đóng vai trò quyết định bằng các giải pháp công nghệ tối ưu để đẩy nhanh sự hồi phục của hệ sinh thái. Bởi nếu để tự nhiên tự làm sạch thì các chất độc sẽ trôi từ vùng này đến vùng khác. Hơn nữa các chất độc đó chỉ được pha loãng chứ không tan hết ngay, trong thời gian nhất định chất độc có thể tích tụ ở một khu vực biển, làm ảnh hưởng đến hệ sinh thái mới phục hồi. Do đó con người có thể tác động vào tự nhiên để sớm đạt được mục đích.
Văn Hào