Đề xuất miền Trung tách thành hai vùng
Ngày 4-6, tại Trụ sở Chính phủ, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng chủ trì cuộc họp về Phương án phân vùng giai đoạn 2021-2030 để triển khai thực hiện Luật Quy hoạch. Cuộc họp có sự tham gia của đại diện các bộ ngành và nhiều chuyên gia, nhà khoa học để tham gia góp ý kiến, tiến tới thống nhất phương án phân vùng giai đoạn 2021-2030 trình Chính phủ.
Phương án phân vùng là tiền đề để lập các Quy hoạch vùng. Do đó, việc xây dựng và thông qua phương án phân vùng giai đoạn 2021 - 2030 là cơ sở cần thiết để kịp thời triển khai lập các quy hoạch vùng thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2030.
Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng chủ trì cuộc họp. |
2 phương án
Thực hiện nhiệm vụ được giao, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chủ động nghiên cứu, xây dựng và đề xuất các phương án phân vùng giai đoạn 2021 - 2030; tiếp thu ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng về phương án phân vùng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã trình Chính phủ 2 phương án.
Phương án 1 do Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề xuất, phân thành 7 vùng, gồm: Đông Bắc (7 tỉnh); Tây Bắc (7 tỉnh); Đồng bằng sông Hồng (11 tỉnh/thành phố); Bắc Trung Bộ (5 tỉnh); Nam Trung Bộ (Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên (12 tỉnh, thành phố); Đông Nam Bộ (8 tỉnh/thành phố) và Đồng bằng sông Cửu Long (13 tỉnh/thành phố).
Phương án 2 là theo chỉ đạo của Phó Thủ tướng, trong đó phân thành 7 vùng trên cơ sở phân vùng giai đoạn 2011-2020 hiện nay (6 vùng) và tách Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung thành 2 vùng: Bắc Trung Bộ và Nam Trung Bộ.
Tổng hợp ý kiến các bộ, ngành và địa phương về 2 phương án phân vùng nêu trên, phương án 1 được Bộ Y tế và 4 tỉnh chọn; phương án 2 được10/14 bộ, ngành và 49/59 địa phương chọn bởi nhiều yếu tố hợp lý.
Cụ thể, phương án 2 gồm các vùng: miền núi phía Bắc (10 tỉnh); Đồng bằng và trung du Bắc Bộ (15 tỉnh, mở rộng thêm 4 tỉnh: Hòa Bình, Phú Thọ, Thái Nguyên và Bắc Giang); Bắc Trung Bộ (5 tỉnh từ Thanh Hóa đến Thừa Thiên – Huế); Nam Trung Bộ (8 tỉnh từ Đà Nẵng đến Bình Thuận); Vùng Tây Nguyên (5 tỉnh); Đông Nam Bộ (6 tỉnh) và Đồng bằng sông Cửu Long (13 tỉnh).
Việc tách Vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung thành hai Vùng là do vùng này hiện quá dài (hơn 1.300 km), do đó các hoạt động giao lưu, kết nối bị hạn chế; vùng có diện tích quá lớn, trải qua nhiều vùng văn hóa, lịch sử và con người rất khác nhau; có sự khác biệt đặc trưng về khí hậu thời tiết giữa hai phần Nam và Bắc đèo Hải Vân, ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế - xã hội.
Phương án 2 cũng đưa ra việc mở rộng Vùng đồng bằng sông Hồng thêm các tỉnh Hòa Bình, Phú Thọ, Thái Nguyên và Bắc Giang để hình thành Vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ.
Theo phương án này, các tỉnh miền núi phía Bắc có sự khác biệt rất lớn so với 4 tỉnh Hòa Bình, Phú Thọ, Thái Nguyên và Bắc Giang về kinh tế, địa hình. Trong khi, 4 tỉnh này có sự gắn kết hữu cơ, hai chiều với Thủ đô Hà Nội và các địa phương Vùng đồng bằng sông Hồng như: Hòa Bình – Hà Nội gắn kết về thị trường dịch vụ du lịch, bất động sản nghỉ dưỡng, tiêu thụ nông sản, thực phẩm, vật liệu xây dựng; Phú Thọ, Thái Nguyên - Hà Nội và các tỉnh gắn kết qua phục vụ hoạt động sản xuất công nghiệp chế biến, chế tạo và xuất khẩu như: Gang thép Thái Nguyên, Samsung, Giấy Bãi bằng,...; Bắc Giang gắn kết với các địa phương qua phát triển các khu công nghiệp xuất khẩu,... Đồng thời, việc mở rộng Vùng đồng bằng sông Hồng là yêu cầu tất yếu để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, để có thêm không gian cho phát triển, đồng thời kết nối, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển của các tỉnh mở rộng.
Phương án 2 cho rằng cần phải giữ quy hoạch vùng Tây Nguyên vì đây là vùng có những đặc trưng văn hóa, dân tộc và đời sống xã hội cần được chú trọng để phát huy. Tây Nguyên có nhiều yếu tố về kinh tế - xã hội, an ninh chính trị cần được quan tâm, có chính sách riêng để xử lý hài hòa. Bên cạnh đó, về điều kiện tự nhiên, địa hình Vùng Tây Nguyên khác so với các tỉnh Nam Trung Bộ: Tây Nguyên có địa hình cao, là cao nguyên đá xếp tầng có độ cao trung bình từ 600 – 800 m so với mực nước biển; khí hậu cận xích đạo có hai mùa mưa và khô rõ rệt.
Đề xuất về cơ chế quản lý, liên kết vùng
Cho ý kiến đóng góp về các phương án phân vùng, đa số chuyên gia ủng hộ phương án 2 với nhiều yếu tố hợp lý hơn. Tại cuộc họp, các bộ, ngành chức năng, chuyên gia, nhà khoa học góp ý điều chỉnh một số nội dung; đồng thời kiến nghị nhiều vấn đề về phân vùng, quy hoạch.
Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Quang Thái, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội Khoa học kinh tế Việt Nam cho rằng, trước khi nghiên cứu các phương án thì phải đặt câu hỏi về mục đích phân vùng.
Theo ông Thái, trước đây đã có nhiều quy hoạch, nhưng vấn đề phát triển vùng, liên kết vùng còn nhiều hạn chế. Vấn đề đặt ra là cần thể chế chính sách, pháp luật để quy hoạch gắn kết các tỉnh thành, gắn kết nguồn lực. Nếu không phân vùng, quy hoạch chỉ là sự cộng dồn của các địa phương. "Nhân quy hoạch về phân vùng này thì cần kiến nghị thêm về cơ chế điều hành, điều tiết trong các vùng. Đây là điểm yếu nhất từ quy hoạch đến thực tiễn" - ông Thái nhấn mạnh.
Đồng tình với quan điểm trên, Phó Giáo sư, Tiến sỹ Trần Trọng Hanh, nguyên Vụ trưởng Vụ Kiến trúc quy hoạch, nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội cho rằng, quy hoạch đã có, nhưng thiếu 3 vấn đề về thể chế rất lớn: Cơ quan điều phối vùng, chính sách tài khóa vùng và chính sách liên kết vùng. Trong đó, cơ quan điều phối vùng, chính sách tài khóa vùng không hiện diện trong các văn bản pháp luật; còn vấn đề liên kết vùng được đề cập đến nhiều, nhưng việc thực hiện còn mờ nhạt trên thực tiễn.
Từ đó, ông Trần Trọng Hanh kiến nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần nghiên cứu phân vùng kỹ hơn, có căn cứ khoa học, tính tối ưu; nghiên cứu các thể chế phát triển vùng; thành lập hội đồng vùng, có chính sách tài khóa vùng, liên kết vùng giữa nhà nước, thị trường và dân sự.
Tiến sỹ Đào Ngọc Nghiêm, nguyên Giám đốc Sở Quy hoạch kiến trúc thành phố Hà Nội, Phó Chủ tịch Hội quy hoạch Hà Nội cho rằng, bên cạnh việc phân định vùng, cần tạo các vùng kinh tế trọng điểm, vùng đặc thù để tạo ra động lực cho phát triển. Đại biểu kiến nghị vùng Thủ đô và vùng Thành phố Hồ Chí Minh là 2 vùng đặc thù.
Bên cạnh đó, ông Đào Ngọc Nghiêm cho rằng, khi đã có phân vùng thì phải xây dựng quy chế hợp tác trong nội vùng, để khắc phục hạn chế hiện nay là các tỉnh phải tự xúc tiến hợp tác với nhau. Ông Nghiêm đề xuất cần có quỹ hợp tác vùng, do Chính phủ quyết định, bởi không có quỹ thì không thể đẩy mạnh hợp tác.
Hoàn thiện phương án trình Chính phủ quyết định
Tại cuộc họp, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng đánh giá cao Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chủ động nghiên cứu, xây dựng và đề xuất các phương án phân vùng, tiếp thu các ý kiến để hoàn thiện phương án.
Phó Thủ tướng nhấn mạnh, quy hoạch vùng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong hệ thống quy hoạch quốc gia, là quy hoạch có tính tích hợp đa ngành, nhằm đưa ra phương hướng phát triển tổng thể, đồng bộ của toàn vùng. Quy hoạch vùng làm nổi bật lên những đặc trưng, tạo ra không gian kết nối, hỗ trợ và phát huy tối đa các tiềm năng, lợi thế của các địa phương trong vùng để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, tinh thần, bảo vệ môi trường, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.
Qua ý kiến của các chuyên gia (đa số đồng thuận với phương án 2), Phó Thủ tướng nhấn mạnh những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện như: mục tiêu của phân vùng; thúc đẩy hợp tác, liên kết vùng; đánh giá những tác động về chính sách thông qua kết cấu hạ tầng, thu hút nguồn vốn đầu tư, không gian phát triển của vùng,...
Theo Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng, phân vùng phải tính đến sự tương đồng về yếu tố địa lý, tự nhiên, kinh tế - xã hội, văn hóa, dân tộc,...; phát huy tiềm năng lợi thế của vùng, các địa phương để phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời ứng phó với các thách thức; phát huy sự gắn kết trong nội vùng; ngoài các vùng kinh tế còn cần các vùng đặc thù để tạo động lực phát triển.
Phó Thủ tướng đề nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp các ý kiến tại cuộc họp với đa số ủng hộ phương án 2, từ đó xây dựng báo cáo trình Chính phủ quyết định về phương án phân vùng.
XUÂN TÙNG – QUỲNH NHƯ