Gã thợ sơn “dính chàm” ma túy
Theo hồ sơ vụ án, Thịnh là thợ sơn và từng có thời gian lao động tại Lào. Cuối tháng 5-2023, Thịnh lại sang Lào nhưng chỉ vài ngày sau, Thịnh lại đón xe khách từ thủ đô Viêng Chăn (Lào) để về Thừa Thiên - Huế. Khi xe khách này đến Cửa khẩu quốc tế Lao Bảo (Quảng Trị), Chi cục Hải quan Cửa khẩu quốc tế Lao Bảo soi chiếu hàng hóa trên xe thì phát hiện 2 thùng nhựa bên trong có hàng hóa nghi ma túy. Lực lượng Hải quan liền phối hợp với Công an Quảng Trị tổ chức âm thầm truy xét.
Sau khi xe khách thông quan, tiếp tục di chuyển vào Thừa Thiên - Huế và đến chiều cùng ngày, xe đến bãi đỗ của nhà xe tại xã Lộc Bổn (H. Phú Lộc, Thừa Thiên - Huế). Sau đó, có 2 thanh niên đi xe máy đến chỗ xe khách vừa từ Lào về để nhận 2 thùng nhựa gửi về theo xe. Sau khi xác nhận thông tin, chủ xe cho khách nhận đồ. Khi 2 thanh niên vừa xách 2 thùng nhựa đi ra cổng thì bị lực lượng chức năng khống chế. Kiểm tra bên trong 2 thùng nhựa, có 8 túi tinh thể rắn màu trắng và 1 túi chứa viên nén màu cam mà hai đối tượng khai là ma túy. Lúc đó, 2 thanh niên được xác định là Phùng Thanh Thịnh và Hoàng Phi Hùng.
Quá trình điều tra, Thịnh và Hùng khai nhận, đầu tháng 5-2023, Thịnh và Hùng ngồi uống cà-phê với Nguyễn Chí V.. Tại đây, Thịnh đặt vấn đề với V. cùng góp tiền để mua ma túy “kẹo, ke” từ Lào đưa về Thừa Thiên - Huế bán kiếm lời. V. đồng ý và hứa sẽ kiếm tiền để hùn hạp làm ăn. Quá trình Thịnh và V. trao đổi, Hùng nghe và biết chuyện bàn bạc mua bán ma túy.
Ngày 27-5-2023, Thịnh đón xe khách đi từ Thừa Thiên - Huế sang Viêng Chăn (Lào) gặp một người phụ nữ tên Giang (Việt kiều sinh sống tại Viêng Chăn) để hỏi mua ma túy và được Giang báo giá ma túy loại “Ke” (ketamine) là 18 triệu Kip/1 lạng, ma túy “Kẹo” là 70 ngàn Kip/1 viên. Thịnh đồng ý và đặt mua 2 lạng “Ke” và 400 viên “Kẹo”. Giang cho Thịnh biết sẽ đóng chung số hàng này gửi 1 lần theo xe khách. Sau khi chốt “đơn hàng”, Thịnh liên lạc qua Mesenger yêu cầu V. chuyển tiền để mua ma túy như thỏa thuận. Vì không có tiền và cũng không muốn thực hiện việc mua ma túy nên V. nhắn tin cho Thịnh biết và không nhận các liên lạc sau đó.
Khoảng 10 giờ ngày 28-5-2023, Thịnh nhắn tin yêu cầu Hùng tìm mua 1 máy ĐTDĐ, loại máy không có chức năng kết nối Internet và 1 sim rác để liên lạc nhận ma túy cho Thịnh. Cũng do V. không “góp vốn” nữa nên Thịnh liên lạc lại với Giang chỉ mua 1 lạng “Ke” và 200 viên “Kẹo”. Giang báo giá còn 32 triệu Kip, tương đương 40 triệu VNĐ. Tối cùng ngày, Thịnh thanh toán tiền mua ma túy cho Giang. Trưa ngày 30-5-2023, Giang liên lạc qua Telegram cho Thịnh thông báo ngày hôm sau gửi hàng về, yêu cầu Thịnh gửi số điện thoại của người nhận và hứa trả tiền công cho người nhận là 5 triệu đồng.
Thịnh liên lạc với Hùng, yêu cầu gửi số điện thoại (đã dặn mua trước đó). Nhưng do Hùng không mua máy và sim như yêu cầu của Thịnh nên Hùng bảo Thịnh ghi số điện thoại của V. Và Thịnh gửi số điện thoại này cho Giang ghi lên 2 thùng nhựa gửi hàng. Giang chụp hình 2 thùng nhựa ghi số điện thoại, địa chỉ nhận bến xe phía Nam Huế và báo cho Thịnh biết ma túy được giấu bên trong, gửi theo xe khách. Giang cũng dặn Thịnh khi nhận ma túy thì chụp ảnh gửi cho Giang để hướng dẫn lấy phần ma túy của Thịnh, phần ma túy còn lại Giang yêu cầu Thịnh giao cho 1 người tên Rôn. Qua số điện thoại do Giang cung cấp, Thịnh liên lạc với Rôn và biết Giang bán số ma túy này cho Rôn.
Khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, Thịnh ra bến xe Viêng Chăn và xác định ma túy đã được gửi trên xe khách BKS 75F-002.xx nên đón xe này để về. Trên đường đi, Thịnh liên lạc với Hùng lấy sim của V. gắn vào máy di động để nhà xe liên lạc nhận 2 thùng nhựa có ma túy. Hùng đến chỗ V. mượn sim, lắp vào máy điện thoại mượn của người thân để liên lạc theo yêu cầu của Thịnh. Khoảng 7 giờ ngày 1-6-2023, Thịnh trên đường về Thừa Thiên - Huế nghi ngờ có lực lượng chức năng theo dõi nên liên lạc yêu cầu Hùng tắt máy điện thoại. Hùng liền mang sim trả lại cho V. và trả máy điện thoại cho người thân. Khi xe khách về đến phía nam Huế, gọi điện theo số ghi trên 2 thùng nhựa thì không ai nghe máy. Chính vì thế, xe tiếp tục di chuyển. Đến TX Hương Thủy, Thịnh cũng xuống xe.
Để nhận được hàng, phải chính số điện thoại gọi xác nhận thì chủ xe mới đồng ý nên Thịnh nhắn tin cho Hùng qua messenger yêu cầu tìm cách để dùng số của V. gọi nhà xe, biết xe đã đến đâu. Hùng gọi cho V., chỉ nói nhờ gọi lại theo số cuộc gọi nhỡ để xác nhận với nhà xe cho Hùng lấy hai thùng sơn. V. nói Hùng sang nhà lấy sim máy để tự gọi nhưng Hùng nói bận không về kịp. Sau khi gọi theo số nhà xe khách, V. báo lại cho Hùng xe đã về bãi đỗ. Chiều cùng ngày, Thịnh chở Hùng vào Lộc Bổn (bãi đỗ nhà xe) lấy hàng và sa lưới như đề cập ở trên.
Qua giám định, tổng số ma túy có 383,88g ma túy Ketamine và 483,149g ma túy methamphetamime. Trong đó, phần đơn hàng của Thịnh là 100g ma túy Ketamine và 96,82g ma túy Methamphetamine. Số còn lại, Thịnh giúp sức cho người khác mua bán trái phép ma túy. Hùng có vai trò giúp sức.
Xét toàn diện vụ án, ý kiến tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận định cáo trạng truy tố đúng người đúng tội, HĐXX tuyên phạt bị cáo Thịnh án tù chung thân và bị cáo Hùng 14 năm tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.
BẢO HÀ