Hơn 6,8 triệu ha rừng được nhận tiền dịch vụ môi trường
Ngày 24-11, Trường Đại học Lâm nghiệp phối hợp với Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng Việt Nam và Trung tâm Nghiên cứu Lâm nghiệp quốc tế (CIFOR) tổ chức hội thảo quốc gia “Đánh giá 10 năm ảnh hưởng của chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng tại Việt Nam".
Người dân tham gia trồng rừng. |
Ông Nguyễn Chiến Cường, Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng Việt Nam (VNFF) cho biết, chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng đã trở thành nguồn tài chính bền vững, huy động nguồn vốn từ xã hội, góp phần vào gia tăng giá trị của ngành lâm nghiệp cũng như tăng trưởng GDP. Nhờ có nguồn tài chính này đã góp phần trong việc quản lý rừng bền vững, bảo tồn đa dạng sinh học, tạo việc làm, sinh kế bền vững cũng như nâng cao nhận thức cho người dân.
Trong 10 năm qua, tổng số tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng đạt 16.758 tỷ đồng, chiếm 18,2% so với tổng đầu tư vào ngành lâm nghiệp. Diện tích rừng được nhận tiền dịch vụ môi trường rừng tăng từ gần 1,4 triệu ha năm 2011 đến năm 2020 là trên 6,8 triệu ha; trong đó rừng đặc dụng chiếm 18,8%, rừng phòng hộ 40,5%, rừng sản xuất 40,7%. Đối tượng được hưởng lợi dịch vụ môi trường rừng là hộ gia đình, cộng đồng, tổ chức nhận khoán bảo vệ rừng.
Từ thực tế của vườn, ông Phạm Hồng Lượng, Giám đốc Vườn quốc gia Cát Tiên đánh giá, nhìn bức tranh tổng thể trong 10 năm qua, mức độ vi phạm trong bảo vệ và phát triển rừng đã giảm đi rất nhiều. Trong nhiều nỗ lực thì dịch vụ môi trường rừng có tác động lớn, thu hút được người dân tham gia bảo vệ, phát triển rừng. Nguồn tiền dịch vụ môi trường rừng chiếm tỷ trọng tương đối, khoảng 27% tổng nguồn kinh phí duy trì mọi hoạt động của Vườn quốc gia Cát Tiên.
Ông Phạm Hồng Lượng cho rằng, bảo vệ rừng có thành công hay không thì tính sinh kế cho người dân vùng ven rừng phải được đảm bảo. Dịch vụ môi trường rừng đã góp phần cả thiện sinh kế cho người dân, chủ yếu là người nghèo.
Theo ông Nguyễn Chiến Cường, thu dịch vụ môi trường rừng còn một số khó khăn, tồn tại như: một số loại dịch vụ môi trường rừng chưa có quy định thu như: dịch vụ hấp thụ và lưu giữ các-bon; cung ứng bãi đẻ nguồn thức ăn con giống; mức chi trả vẫn còn thấp hơn so với giá trị dịch vụ môi rừng tạo ra như chỉ 36 đồng/kWh đối với cơ sở sản xuất thủy điện, 52 đồng/m3 đối với cơ sở sản xuất nước sạch; có sự chênh lệch mức chi trả giữa các tỉnh và lưu vực vì phụ thuộc vào người sử dụng môi trừng rừng và vị trí lưu vực…
Định hướng 2021-2030, ông Nguyễn Chiến Cường cho rằng, cần mở rộng đối tượng thu cũng như đối tượng được chi trả; điều chỉnh cơ chế phân bổ tiền dịch vụ môi trường rừng giữa các tỉnh trong cùng lưu vực sông; nâng mức chi trả dịch vụ môi trường rừng….
Về mở rộng đối tượng thu cần mở rộng dịch vụ kinh doanh du lịch sinh thái; cơ sở sản xuất công nghiệp; cơ sở nuôi trồng thủy sản như nuôi tôm sinh thái dưới tán rừng ngập mặn, nuôi cá nước lạnh, nuôi cá lồng trên sông, hồ…; dịch vụ hấp thụ và lưu trữ các-bon trong nước và bán tín chỉ các-bon ra thị trường thế giới.
Tại hội thảo các đại biểu cho rằng, chi phí tái trồng rừng cao nên không thể thúc đẩy người dân lựa chọn chi trả dịch vụ môi trường rừng. Hơn nữa, do mức chi trả dịch vụ môi trưởng rừng thấp nếu so với chi phí cơ hội của việc chuyển đổi rừng sang canh tác nông nghiệp hứa hẹn mang lại lợi ích kinh tế cao hơn so với tham gia vào chi trả dịch vụ môi trường rừng.
Do vậy, Nhà nước cần có giải pháp phù hợp để thu hút cộng đồng địa phương vào các hoạt động bảo vệ và nâng cao chất lượng rừng và phục hồi rừng. Cơ chế dịch vụ môi trường rừng cũng cần được triển khai đồng thời với chương trình phát triển sinh kế.
Theo đó, Nhà nước cần hoàn thiện pháp lý để bổ sung nguồn thu từ các loại dịch vụ môi trưởng rừng; tăng cường cơ sở vật chất nhằm nâng cao chất lượng quản lý cơ sở dữ liệu về rừng; có chính sách phát triển rừng trồng một cách hiệu quả như: quyền sở hữu sử dụng đất, tín dụng, kết nối thị trường để rừng trồng phát triển bền vững và đủ điều kiện để hưởng lợi từ dịch vụ môi rường rừng; có giải pháp thúc đẩy tham gia vào chi trả dịch vụ môi trường rừng của các tổ chức cá nhân chi trả và hưởng lợi.
Các cơ quan quản lý nhà nước cần chủ động hơn trong việc cụ thể hóa chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng vào đặc thù mỗi địa phương.
Bích Hồng