Hồn quê một làng tranh
(Cadn.com.vn) - Người ta đến làng Sình thưởng ngoạn làng nghề tranh không phải để tìm ở đây sự giỏi giang, tinh xảo của tay nghề mà vì yêu, vì quý sự hồn nhiên trong trẻo cho đến cả sự vụng về được thể hiện trong tranh. Và, có lẽ đây là nét văn hóa tâm linh cổ sơ còn lưu dấu ở Huế.
Đứng trên bến nước làng Sình nhìn khói mây giăng mờ trên sông rộng, bỗng dưng tôi có cảm giác thân quen với đất đai xứ sở này như tự bao giờ. Hạo hạo yên ba cổ độ thu! Hóa ra cái bến thu xưa triền miên khói sóng như thơ người xưa từng viết từ một bãi bờ nào đó, đã sinh thành trong tôi một thứ bến bờ thường hằng cho bao nỗi ưu du lắng sâu vào vô thức. Để từ cái bến nước này cho tới con đường làng chạy dọc ven sông kia, nhìn vào đâu tôi cũng thấy nét quen thuộc.
Nhưng cũng có thể, cái cảm giác ấy xuất hiện là bởi cái làng tranh dân gian này đã gieo vào đầy trong ký ức tuổi thơ tôi những nhân vật cổ tích bước ra từ những bức tranh như: chú Điệu, cô Tiên, bà chúa Ngọc..., mà ngày xưa, hễ vào mỗi dịp Tết là mẹ tôi sắm sửa không biết bao nhiêu là tranh thờ cúng, và rồi đốt đi như gửi một niềm tín cẩn huyền nhiệm vào vô tận. Vâng, cái làng Sình thời tuổi thơ tôi cứ tưởng như ở tận đẩu tận đâu xa tít chốn chân trời, như là miền đất của thần linh trú ngụ. Còn bây giờ, cái làng Sình nó cụ thể như thế này đây, leo pheo gió cuối đông thổi gầy bãi bờ, bến vắng, con đường làng nhỏ loanh quanh thưa thớt dấu chân người. Ấy vậy mà chất chứa trong lòng cõi thanh vắng kia là cái làng tranh dân gian gầy guộc bé nhỏ đã những 400 năm tuổi...
Tranh làng Sình (bộ bát tiên). |
Là một làng quê vùng hạ lưu sông Hương, một miền đất sâu dày các tầng vỉa văn hóa và tín ngưỡng dân gian, dòng tranh mộc làng Sình không nghiêng về chiều hướng nghệ thuật, dường như mỗi một bức tranh được thể hiện như là một phương tiện lưu chuyển đức tin của con người về một cõi thần giới siêu hình nào đó, với lòng kính ngưỡng nguyện cầu cho đời sống cơm no áo ấm và an lành. Theo sách địa chí các làng nghề ở Thừa Thiên- Huế, thì tranh làng Sình ra đời cách nay đã 400 năm. Gọi là làng nghề nhưng thực ra làng Sình là một làng thuần nông, nghề làm tranh mộc bản từ xưa đến nay chỉ là công việc đan xen vào những lúc nông nhàn, chủ yếu cũng chỉ mua đi bán lại trong vùng. Dần hồi nghề làm tranh phát triển, có thời tranh làng Sình đã tỏa rộng khắp dải đất miền Trung. Trải qua bao thăng trầm lịch sử, chiến tranh, đến nay tranh làng Sình vẫn tồn tại, là bằng chứng thuyết phục về một giá trị minh định cho một sự sống văn hóa tâm linh giữa lòng đại chúng.
Tranh làng Sình. |
Ngôi nhà của nghệ nhân Kỳ Hữu Phước, người được mọi người gọi là "người giữ lửa cho làng tranh Sình" trong một con đường nhỏ dẫn ra bến đò. Trong cái sân vuông không lấy gì làm rộng lắm, một gian trại lợp tranh độ vài chục mét vuông, treo tấm biển gỗ "Tranh làng Sình" sơ sài phía trước trông khá khiêm tốn. Theo ông Phước, đến đời ông là đời thứ 9 trong dòng họ kế thừa nghề làm tranh mộc bản ở làng Sình. Quý trọng cái nghề của tổ tiên ông bà để lại, ông đã truyền dạy cho nhiều lớp trẻ trong làng. Đã có nhiều lúc ông tưởng đến đời ông, làng nghề không thể tồn tại nổi, vì thời đó nghề làm tranh thờ cúng được xem như mê tín dị đoan bị cấm tuyệt đối. Ông đã lặng lẽ đem tất cả khuôn in mộc bản chôn giấu sau vườn nhà.
Nghệ nhân Kỳ Hữu Phước đang vẽ tranh. |
Hiện nay, di sản quý báu của tổ tiên để lại ông còn lưu giữ một bộ khuôn "Trưng y" làm bằng gỗ sừng đã 300 năm. Từ khi Nhà nước cho phép hoạt động lại, tự tay ông Phước đã khắc nhiều bộ mộc bản khác cho các gia đình trong làng để khích lệ họ duy trì nghề nghiệp. Mặc dù vậy, thu nhập của một nghề thủ công vốn đã không nhiều nhặn gì, đời sống công nghiệp hiện đại lại can dự vào tất cả, kể cả việc thờ cúng, nên người làm nghề này cứ thưa thớt dần. Riêng ông vẫn cố gắng vận động con cháu giữ nghề, nhất là bây giờ nhờ ngành du lịch quảng bá tiếp sức nên sinh hoạt làng nghề có chiều hướng khởi sắc trở lại.
Tranh làng Sình từ xưa đến nay chủ yếu gồm ba loại: Tranh nhân vật là loại tranh tượng ông, tượng bà, ông Điệu, ông Đốc, tờ bếp (ông Táo). Tranh đồ vật vẽ các thứ áo, tiền và dụng cụ đồ dùng để cúng cho người cõi âm. Loại tranh sau cùng là tranh súc vật, gồm các loại gia súc, ngoài ra còn có voi, cọp và tranh 12 con giáp. Tùy theo hình thức thể hiện, tranh được phân bổ xếp thành các loại: tranh cúng bổn mệnh, tranh cúng gia tiên, tranh cúng thế mạng... Tuy vậy, vẫn có một số tranh có ít nhiều khuynh hướng thiên về nghệ thuật. Loại tranh này dùng để trang hoàng treo quanh năm trong nhà. Và khi ngày hết năm tận, để tống cựu nghinh tân, người ta thay tranh cũ đi để đổi tranh mới.
Ông Phước cho chúng tôi xem bộ tranh "Bát âm", gồm 8 cô (tiên) biểu diễn các loại đàn địch, nhạc cụ khác nhau. Hoặc bộ tranh "Tứ bình" (mai, lan, cúc, trúc). Màu sắc dùng tô tranh, có lẽ không còn khó nhọc như ngày xưa phải lặn lội lên miền rừng núi tìm các loại cây lá về để pha chế các màu vàng, đỏ, đen, xanh..., mà trong sản xuất công nghiệp đã đủ màu sắc giúp các nghệ nhân làng Sình đỡ nhọc nhằn vất vả hơn. Cũng có người cho rằng, chính vì sự hiện đại can dự vào nên tranh làng Sình mất đi cái hồn cốt, cái thần thái của làng tranh. Tôi không tin như thế, bởi linh hồn ở tranh làng Sình nằm ở chỗ bố cục đường nét hồn nhiên, mộc mạc và dung dị. Sự pha chế màu sắc tô lên từng loại tranh biểu hiện rất rõ sự hồn nhiên đến thực lòng.
Người ta đến làng Sình thưởng ngoạn làng nghề tranh không phải để tìm ở đây sự giỏi giang, tinh xảo của tay nghề, mà vì yêu vì quý sự hồn nhiên trong trẻo cho đến cả sự vụng về được thể hiện trong tranh. Và, có lẽ đấy là nét văn hóa tâm linh cổ sơ còn lưu dấu ở Huế, chưa bị thời thượng hóa bởi những thứ "đồng bóng" mang tên lễ hội.
Nguyễn Nhã Tiên