Báo Công An Đà Nẵng

Khai thác tài nguyên bền vững tại các đô thị du lịch biển: Cần một “tư duy đột phá”

Thứ ba, 03/09/2019 09:35

Đề cập về tầm quan trọng của tài nguyên du lịch biển trong cấu trúc đô thị du lịch bền vững, Tiến sĩ Nguyễn Thu Hạnh, Chủ tịch Liên hiệp Khoa học phát triển du lịch bền vững cho biết: Việt Nam hiện có 12 đô thị du lịch, trong đó có đến 9/12 đô thị du lịch biển, gắn với việc khai thác tài nguyên du lịch biển là chủ yếu.

Du lịch Đà Nẵng khai thác thế mạnh của biển thu hút lượng lớn du khách đến mỗi năm.

Theo Tiến sĩ Nguyễn Thu Hạnh, không chỉ cần một tư duy mới mà phải là một “tư duy đột phá” hoàn toàn mới, linh hoạt và sáng tạo, không giống với những cách thức truyền thống trước đây thì mới hy vọng có được giải pháp tận cùng cho vấn đề phát triển bền vững tại các đô thị du lịch biển. Bởi quá trình khai thác tài nguyên biển trong giai đoạn trước đây hầu hết là cách thức khai thác tài nguyên thô, nghĩa là khai thác những giá trị bề nổi, sẵn có và với phương thức khai thác theo kiểu “mỳ ăn liền”. Tư duy ăn sẵn với “nền kinh tế cơ bắp” dựa nhiều vào nhân công giá rẻ và dựa nhiều vào việc khai thác tài nguyên thiên nhiên, với tầm nhìn ngắn hạn đã khiến cho các nguồn tài nguyên du lịch biển của Việt Nam nhanh chóng cạn kiệt.

Do đó, đã đến lúc phải nhìn nhận lại quỹ tài nguyên biển với những giá trị tự nhiên, văn hóa, lịch sử tinh thần... còn tiềm ẩn mà đang bỏ ngỏ. Các tài nguyên biển có khoảng 10 giá trị, thì hiện mới chỉ khai thác được vài ba giá trị bề nổi mà thôi. Ngoài bãi tắm và hải sản, còn có nắng biển, gió biển, muối biển, cảnh quan biển và văn hóa biển đặc trưng, lâu đời... Để khai thác hiệu quả các giá trị tiềm ẩn này, cần sử dụng hàm lượng chất xám cao hơn với cách tiếp cận của “Tư duy đột phá” để tạo nên những sản phẩm du lịch mới, độc đáo và mang bản sắc riêng có của vùng biển Việt Nam.

Tiến sĩ Nguyễn Thu Hạnh khẳng định: Với mục tiêu "Thay đổi tư duy trong việc khai thác tài nguyên để tạo ra bước đột phá cho du lịch Việt Nam", Liên hiệp Khoa học phát triển du lịch bền vững đã đầu tư trọng điểm cho các công trình nghiên cứu có “Tư duy đột phá”, giải quyết các thách thức lớn nhất của du lịch Việt Nam hiện nay như vấn đề cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu...

Sau 9 năm thành lập, Liên hiệp Khoa học phát triển du lịch bền vững đã nghiên cứu và công bố 18 dự án du lịch mang “Tư duy đột phá”, được dư luận đánh giá cao về tính sáng tạo. Điển hình là Dự án “Biến mưa, bão, lụt miền Trung thành sản phẩm du lịch”. Đây là dự án thay đổi tư duy ứng xử với biến đổi khí hậu. Thay cho “trốn chạy” và “chống lại” các yếu tố thời tiết bất lợi, dự án đề xuất các giải pháp “sống chung” và tìm kiếm cơ hội từ chính những yếu tố bất lợi đó. Dự án đang được một số doanh nghiệp du lịch ứng dụng triển khai tại thành phố Huế và thành phố Hội An.

Một Dự án tiêu biểu nữa là Mô hình “Khánh sạn bóng đêm”. Đây là mô hình khách sạn tiết kiệm năng lượng điện ở mức tối đa nhưng lại khai thác được nhiều giá trị và vẻ đẹp của bóng tối, để giúp khách du lịch có những trải nghiệm hoàn toàn mới và tạo được doanh thu cho doanh nghiệp. Dự án đã ký hợp đồng chuyển giao công nghệ cho 3 doanh nghiệp tại Hội chợ Techmart quốc tế 2013. Đồng thời, Liên hiệp Khoa học phát triển du lịch bền vững còn tiến hành các dự án “Sản phẩm du lịch từ cát, muối, rác”, mục đích xây dựng góc nhìn mới, phương thức khai thác mới từ những nguồn tài nguyên cũ của biển, hay tạo không gian thư giãn, chữa bệnh và phục hồi sức khỏe bằng “Vườn Thiền cát”. Hoặc những hoạt động hữu ích cho du khách trong “Công viên tái sinh”. Tại đây, du khách cùng tham gia trò chơi phân loại tài nguyên (giấy, nhựa, thủy tinh...) để “tái sinh sản xuất” trong các xưởng tái sinh thành các sản phẩm mới.

Đặc biệt, Dự án “Sản phẩm du lịch từ gió Bạc Liêu” đã giúp cho Nhà máy điện gió Bạc Liêu có hướng phát triển mới để phát triển chuỗi sản phẩm du lịch từ gió, tạo thêm nguồn thu nhập từ việc khai thác “cánh đồng điện gió Bạc Liêu”. Dự án được UBND tỉnh Bạc Liêu ủng hộ và đứng ra kết nối Liên hiệp Khoa học phát triển du lịch bền vững với các doanh nghiệp trong tỉnh và đã triển khai vào thực tế từ năm 2015.

V.H