Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII: Còn nhiều ý kiến khác nhau về nghĩa vụ quân sự
(Cadn.com.vn) - Chiều 12-11, các đại biểu Quốc hội làm việc tại tổ, thảo luận về dự án Luật nghĩa vụ quân sự (sửa đổi). Nhiều đại biểu cho rằng, cần có quy định về điều kiện đối với các nữ thanh niên muốn tham gia nghĩa vụ quân sự.
Trước đó, vào buổi sáng, các đại biểu Quốc hội làm việc tại hội trường nghe Tờ trình và Báo cáo thẩm tra về dự án Luật an toàn vệ sinh lao động và thảo luận về dự thảo Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (sửa đổi). Dự án Luật An toàn vệ sinh lao động cũng đã được các đại biểu thảo luận ở tổ trong phiên làm việc buổi chiều.
Bảo đảm sự công bằng
Thảo luận về dự án Luật nghĩa vụ quân sự (sửa đổi), nhiều đại biểu tán thành với các quan điểm sửa đổi, bổ sung Luật và nhấn mạnh dự án Luật cần thể hiện rõ hơn theo tinh thần mới của Hiến pháp năm 2013, để phù hợp với yêu cầu kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; chính sách nghĩa vụ quân sự phải bảo đảm thực hiện phương châm vừa xây dựng lực lượng thường trực chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có số lượng hợp lý, vừa xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu; đổi mới chế độ chính sách đối với người thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, động viên thanh niên hăng hái phục vụ trong quân đội và tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân để bảo đảm công bằng xã hội.
Bảo đảm sự công bằng xã hội trong thực hiện nghĩa vụ quân sự là nội dung được nhiều đại biểu quan tâm, thảo luận. Đại biểu Trần Văn Độ khẳng định: Hiến pháp năm 2013 đã quy định bảo vệ Tổ quốc là quyền và nghĩa vụ thiêng liêng của công dân. Công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự và tham gia nền quốc phòng toàn dân. Vì vậy, thực hiện nghĩa vụ quân sự là những người trong độ tuổi theo quy định của luật phải thực hiện và mọi công dân bằng cách này hay cách khác, khi Nhà nước cần thì phải thực hiện nghĩa vụ quân sự.
Thanh niên lên đường nhập ngũ. |
Để bảo đảm công bằng, đại biểu đề nghị ban soạn thảo cần nghiên cứu quy định về nghĩa vụ thay thế để mọi công dân trong độ tuổi (kể cả những người đã học cao đẳng, đại học) bằng hình thức này hay hình thức khác đều có thể thực hiện nghĩa vụ quân sự. Bên cạnh hình thức thay thế, cần kéo dài thời gian thực hiện nghĩa vụ quân sự lên 24 tháng. Đối với một số binh chủng kỹ thuật như phòng không không quân, hải quân... kéo dài thời gian thực hiện nghĩa vụ quân sự lên 3 năm.
Đồng tình với ý kiến trên, đại biểu Ngô Minh Tiến cho rằng nên kéo dài thời gian thực hiện nghĩa vụ quân sự từ 18 tháng lên 24 tháng đồng thời tăng tuổi nhập ngũ tối đa từ 25 lên 27 tuổi để bảo đảm các đối tượng được miễn, hoãn vẫn có thể tham gia thực hiện nghĩa vụ quân sự.
Trái với quan điểm trên, đại biểu Lê Việt Trường nhận định: Việc tăng thời hạn tham gia nghĩa vụ quân sự lên 24 tháng cần nghiên cứu phản ứng của xã hội về vấn đề này. Bởi thực tế qua giám sát năm 2012 về việc thực hiện nghĩa vụ quân sự và công dân thực hiện có thời hạn trong Công an nhân dân cho thấy: hàng năm có khoảng 7 triệu thanh niên trong độ tuổi sẵn sàng nhập ngũ, chỉ gọi vào phục vụ trong quân đội 5,79%. So với tổng dân số, số được gọi vào quân đội để phục vụ hàng năm là 0,12%. Trong số đã vào quân đội, có tới 85% là con em nông dân, còn lại 15% là con em của cán bộ công chức, viên chức, tri thức, doanh nhân, tiểu thương.
Bình quân từ 2005-2012, chỉ có khoảng 4,75% trong tổng số lấy vào quân đội có trình độ cao đẳng và đại học. Bộ Luật Hình sự đã quy định rõ về tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự (kể cả đăng ký, không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ), có những chế tài mạnh mẽ nhưng từ 2005-2012 chỉ xử lý hình sự được 4 vụ, còn lại là xử lý hành chính. Có ý kiến người dân cho rằng nếu đưa xuống 12 tháng, nếu là nữ cũng sẵn sàng xung phong đi nghĩa vụ quân sự bởi 12 tháng không nhiều, sau khi tốt nghiệp đại học xong có thể đi nhập ngũ để thay đổi môi trường sống. Vậy vấn đề đặt ra là kéo dài thời gian thực hiện nghĩa vụ quân sự liệu có khả thi không hay tình trạng trốn tránh còn nhiều hơn nữa? - đại biểu Trường đặt vấn đề.
Góp ý điều kiện đối với yếu tố bình đẳng giới trong luật, đại biểu Bùi Trí Dũng cho rằng dự án luật cần có quy định về điều kiện đối với các nữ thanh niên muốn tham gia nghĩa vụ quân sự để có thể bảo đảm quyền công dân, thể hiện lòng yêu nước ở tất cả các giới.
Tranh luận vai trò giám sát và phản biện của Mặt trận
Thảo luận về dự thảo Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (sửa đổi), nhiều ý kiến đại biểu Quốc hội quan tâm tới hai nội dung về hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam (Chương V) và hoạt động phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam (Chương VI).
Một số ý kiến đề nghị dự thảo Luật cần phân định rõ giám sát của MTTQ Việt Nam với giám sát của cơ quan dân cử mang tính quyền lực Nhà nước để từ đó xác định đúng tính chất, quy mô giám sát, giá trị pháp lý của kết luận giám sát do MTTQ Việt Nam thực hiện; mối quan hệ giữa giám sát của Mặt trận với các hoạt động giám sát của các cơ quan dân cử. Nghiên cứu các hình thức giám sát cho phù hợp, đa dạng, phong phú hơn nhằm bảo đảm việc giám sát mang lại hiệu quả thiết thực, tránh tạo nên sự nặng nề, trùng lắp tầng nấc giám sát. Việc quy định “Các hình thức giám sát khác phù hợp với quy định của pháp luật” (khoản 5 Điều 28) là chưa rõ ràng, vì Luật này quy định về hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam nên cần phải quy định cụ thể các hình thức giám sát...
Về hoạt động phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam (Chương VI), các ý kiến cho rằng, việc thể chế hóa chủ trương của Đảng và cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về nhiệm vụ phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam trong dự thảo Luật là cần thiết. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Hiến pháp đều ghi nhận nhiệm vụ phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam.
Đại biểu Ma Thị Thúy đề nghị Ban soạn thảo nên tách thành hai điều riêng về đối tượng phản biện và nội dung phản biện thay cho việc ghép lại như trong dự thảo; cần quy định rõ hơn về trách nhiệm, nguyên tắc tổ chức phản biện của MTTQ... Tại khoản 2 Điều 35 quy định: MTTQ gửi văn bản lấy ý kiến phản biện trong hệ thống tổ chức của mình, đại biểu cho rằng để quy định chặt chẽ hơn, quy định này cần sửa lại thành: MTTQ gửi văn bản, lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến phản biện trong hệ thống chính trị của tổ chức mình.
Đại biểu Huỳnh Minh Thiện (thành phố Hồ Chí Minh) trích dẫn khoản 1 Điều 33 quy định: Phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam là việc nhận xét, đánh giá, nêu chính kiến, kiến nghị đối với dự thảo chính sách, pháp luật của Nhà nước; dự thảo các chương trình, dự án, đề án của cơ quan Nhà nước. Theo đại biểu việc giám sát và phản biện xã hội của MTTQ nhằm mục đích phát huy quyền làm chủ của nhân dân góp phần xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, do vậy không nên giới hạn MTTQ chỉ nhận xét, đánh giá... đối với dự thảo chính sách, pháp luật, chương trình, dự án mà cần phải phản biện cả khi chính sách, pháp luật, chương trình, dự án đã được ban hành, thực hiện nhưng còn hạn chế, bất cập.
Bảo đảm an toàn và sức khỏe người lao động
Tờ trình dự án Luật an toàn vệ sinh lao động do Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Phạm Thị Hải Chuyền trình bày, nêu rõ việc xây dựng Luật an toàn, vệ sinh lao động được chuẩn bị trên cơ sở thi hành Hiến pháp năm 2013. Dự án Luật an toàn vệ sinh lao động có 7 chương, với 94 điều quy định việc bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động; chế độ đối với người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; trách nhiệm và quyền hạn của các tổ chức, cá nhân có liên quan đến công tác an toàn, vệ sinh lao động và quản lý Nhà nước về an toàn, vệ sinh lao động.
Thẩm tra dự án luật, Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội tán thành với sự cần thiết và quan điểm của Chính phủ về việc xây dựng dự án Luật. Ủy ban cho rằng để đáp ứng yêu cầu an toàn vệ sinh lao động đối với tất cả người lao động, việc xây dựng và ban hành Luật an toàn vệ sinh lao động cần tiếp tục thể chế hóa quan điểm của Đảng, quy định của Hiến pháp và nội luật hóa các công ước quốc tế về an toàn vệ sinh lao động mà Việt Nam là thành viên.
Thảo luận dự án Luật an toàn vệ sinh lao động, đa số các đại biểu đồng tình với việc mở rộng đối tượng áp dụng cho tất cả người lao động: trong khu vực có quan hệ lao động và không có quan hệ lao động. Bởi, theo đại biểu Hoàng Thị Hoa, thực tế hiện nay có hơn 60% người lao động đang làm việc trong khu vực không có quan hệ lao động. Để đảm bảo tính khả thi, cần xây dựng cơ chế, chính sách cụ thể nhằm khuyến khích người lao động ở khu vực này áp dụng các tiêu chuẩn an toàn vệ sinh lao động, đặc biệt là người lao động làm việc trong các lĩnh vực có nguy cơ cao xảy ra tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hoặc những lĩnh vực có ảnh hưởng tới sức khỏe, an toàn của cộng đồng.
Liên quan đến quy định về thanh tra chuyên ngành an toàn vệ sinh lao động, nhiều đại biểu đề nghị chỉ quy định ở cấp Bộ và cấp tỉnh như Luật thanh tra. Đại biểu Phạm Thị Thu Hồng phân tích: Việc phân cấp thẩm quyền thanh tra cho cấp huyện trong dự án Luật chưa phù hợp với Luật thanh tra. Đồng thời, nếu thành lập thanh tra chuyên ngành ở cấp huyện trực thuộc phòng Lao động - Thương binh và Xã hội có từ 1-2 người sẽ làm “mất” khoảng 1.000 biên chế trong điều kiện tinh giản biên chế như hiện nay. Bên cạnh đó, đội ngũ thanh tra cấp huyện chỉ có 1-2 người sẽ không bảo đảm được việc thanh kiểm tra lao động và thiết bị an toàn vệ sinh lao động.
Thu Thủy – TTXVN