Lê Thị Mây - người sinh ra vì thơ
1. Lê Thị Mây là một trong 10 nhà thơ nữ Việt Nam có thơ hay được bạn đọc yêu mến. Đó là nhận định của nhiều nhà phê bình. Những năm 80 của thế kỷ trước, Lê Thị Mây ở Huế, biên tập viên của tạp chí Văn nghệ Bình Trị Thiên, rồi tạp chí Sông Hương. Gần 20 năm cùng sinh hoạt văn chương ở Huế, tôi có rất nhiều kỷ niệm về Lê Thị Mây...
Nhà thơ Lê Thị Mây . |
Lê Thị Mây tên thật là Phạm Thị Tuyết Bông, quê gốc Triệu Long, Triệu Phong (Quảng Trị). Còn trong sách "Các nhà văn Việt Nam hiện đại Quảng Bình" lại xếp Lê Thị Mây vào danh sách "nhà văn Quảng Bình". Điều đó cũng đúng vì chị sinh ra ở Bảo Ninh, Đồng Hới. Mảnh đất bên kia sông Nhật Lệ ấy có rất nhiều người nổi tiếng như nhà ngôn ngữ học Hoàng Tuệ, nhà văn Bảo Ninh, nhà thơ Hà Nhật... Lê Thị Mây kể rằng, thời cố nội chị đi buôn bán từ Cửa Việt ra Đồng Hới lấy vợ người Đồng Hới, rồi định cư luôn ở đây. Năm 17 tuổi, học hết phổ thông, Lê Thị Mây gia nhập TNXP hoạt động ở vùng miền Tây Quảng Bình. Hiện chị còn giữ cuốn nhật ký ghi lại những ngày ở Tróoc, một vùng rừng Trường Sơn sôi động như là một chứng tích đời mình. Chị kể: "Vừa rời nách mẹ mới 200 ngày đêm, bọn Mỹ đã bẻ gãy tuổi 17 của tôi bằng trận bom đầu tiên ...Vết bom xuyên sâu vào mặt tôi, làm dị dạng gương mặt sắp đón nhận tuổi 20...". Tuổi 20 đẹp đẽ của chị cũng đã mang nỗi đau chia ly. Người yêu đầu tiên, một bác sĩ quê ở xứ Quảng đã chia tay chị đi B. Chị kể: "Ba năm sau tôi mới hay tin anh hy sinh ở chiến trường Quảng Trị". Có lẽ đó là nỗi mong chờ đầu tiên, mối tình đầu tiên, khởi đầu cho bao mối tình ngang trái đi qua đời chị, hằn vết thương trong tim chị.
Ở TNXP, Phạm Thị Tuyết Bông đã làm những bài thơ đầu tiên chép chi chít vào một cuốn sổ nhỏ. Bởi thế năm 1972, khi rời đơn vị TNXP về làm quản lý bếp ăn 600 học sinh ở Trường Y tế tỉnh Quảng Bình, Bông đã mạnh dạn tìm đến nhà thơ Xuân Hoàng, lúc đó là Hội trưởng Hội Văn nghệ Quảng Bình. Trong hồi ký Âm vang thời chưa xa (tập II), Xuân Hoàng kể rằng, không biết làm thế nào Bông xin được lá thư viết tay của ông Cổ Kim Thành, Bí thư Tỉnh ủy, gửi cho Xuân Hoàng, giới thiệu: "Đây là cô Bông, rất thích viết văn, cô ấy có nguyện vọng chuyển sang chỗ các anh, anh xét thấy nếu cô ấy có khả năng thực sự thì nhận về giúp đỡ...". Xuân Hoàng hỏi: "Bông yêu văn nghệ, nhưng đã có sáng tác nào chưa?". Bông đã chuẩn bị sẵn cuốn sổ thơ trong túi liền lấy ra đưa cho nhà thơ. Xuân Hoàng đọc qua vài ba bài, thấy thơ "thơ thật thà và sơ lược như thơ chung gửi về Hội lúc đó". Nhưng có lẽ nhà thơ nhận ra những câu chữ thơ của Bông dù "thật thà" cũng đã ánh lên chút hy vọng ở tương lai, liền nói: "Nếu cô biết đánh máy tôi sẽ nhận. Về đây, có không khí sáng tác và nhiều người sáng tác giỏi, cô sẽ có điều kiện học hỏi...". Bông nhỏ nhẹ nhưng rất tự tin: "Em không biết đánh máy, nhưng học tại chỗ một thời gian thì có thể làm việc được". Thế là Phạm Thị Tuyết Bông trở thành nhân viên của Hội Văn nghệ từ đấy. Sau đó, Hội Văn nghệ nhận thêm một cô gái làm thơ nữa là Lâm Thị Mỹ Dạ. Mỹ Dạ trắng trẻo, xinh đẹp, nhỏ nhắn, từ quê đồng chiêm Lệ Thủy mới lên tỉnh nên rất rụt rè, gặp Phạm Thị Tuyết Bông chững chạc, từng trải, liền "một chị Bông hai chị Bông". Sau này biết Bông cùng tuổi với mình, Lâm Thị Mỹ Dạ đề nghị đổi lại cách xưng hô cho bạn bè, nhưng Bông không chịu. Đến bây giờ Dạ vẫn gọi Bông là "chị". Năm sau, Bông và Dạ được nhà thơ Xuân Hoàng cho đi học lớp Bồi dưỡng viết văn trẻ của Hội Nhà văn Việt Nam ở Quảng Bá, Hà Nội. Đi học về, Phạm Thị Tuyết Bông có bút danh mới là Lê Thị Mây.
2. Như bao người con gái lớn lên, Lê Thị Mây luôn mơ đến một người yêu, một gia đình, những đứa con, mơ được làm vợ, làm mẹ... Khát vọng đó cháy bỏng, nhức nhối, kết tủa thành sẹo trong thơ chị. Đó là phút hẹn nhau mà chàng không đến: Nỡ nào bứt cọng cỏ xanh/ Đau em chợt trút cho thành đau cây; đó là Những mùa trăng mong chờ, để khi gặp lại rồi lại chia xa: Em tái nhợt niềm vui / Như trăng mọc ban ngày; đó là cầu nguyện có được một người đàn ông của mình: Em cầu cho buộc được / Số phận em vào anh...; đó là những Giấc mơ thiếu phụ, mơ được làm một người đàn bà bình thường; đó là khát khao Kim chỉ vá may quần áo cho chồng, cho con: Áo sờn mảnh vá người chê/ Bây giờ tôi vá dầm dề gió mưa; ám ảnh đến mức nhìn thấy lá trầu cũng nghĩ đến cưới xin, đến chuyện làm mẹ: Bao cô gái bây giờ ru tình mẹ/ Mà lá trầu còn xanh với người mua; nhà thơ mơ Đến một ngày: Một ngày kia người đội mâm chú rể / Đầu ngõ hoa pháo cưới áo cô dâu... Áo chồng giặt ai người vo cay đắng... Mâm cơm dọn canh bầu than ủ lửa... Ôm hoa trọn cả tháng ngày khao khát...
Nhưng những câu thơ làm nao lòng người ấy là những vết sẹo của nỗi chờ mong thăm thẳm. Còn đường tình duyên của chị lại quá nhiều trắc trở. Nhà thơ của chúng ta mong chờ mười năm, hai mươi năm, mong chờ qua thời con gái: Vậy là em phải mang theo những câu chuyện tình đã tắt/ Như mang theo tro, như mang theo than...
3. Thơ Lê Thị Mây buồn thấm thía. Mây biết giấu nỗi đau để cười. Khi mới 20 tuổi Mây đã có những câu thơ ám ảnh : Hãy ngủ yên nỗi buồn/... Ngủ yên trong lau sậy lòng tôi". Cô gái TNXP nhiều năm trên Trường Sơn ấy đến nay đã xuất bản 25 tác phẩm thơ văn; được giải thưởng Hội Nhà văn về tập thơ Riêng tặng một người (1990) và tặng thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam cho truyện dài Huyết ngọc (1998). Chị có bài thơ nổi tiếng "Những mùa trăng mong chờ" được chọn vào 100 bài thơ hay nhất thế kỷ. Theo tôi là một trong số những bài thơ hay nhất thời chống Mỹ. Có lẽ Lê Thị Mây là người sinh ra vì thơ, cho thơ. Chị đã lao động cật lực, đã chịu đựng biết bao mất mát đau thương của số phận, kể cả sự cô đơn và quyền được làm mẹ, để ghi tên mình vào danh sách những cây bút nữ xuất sắc nhất của làng thơ Việt thế kỷ XX. Âu đó cũng là một cách tồn tại. Mà tồn tại trong lòng người đọc là mơ ước của hàng triệu người cầm bút bao đời nay...
NGÔ MINH