Lừa đảo môi giới mang thai hộ chiếm đoạt hơn 1 tỷ đồng
Dung hứa sẽ tìm được người cho trứng và mang thai hộ, sinh con cho vợ chồng ông N. rồi chiếm đoạt của vợ chồng này hơn 1 tỷ đồng. Chiều 18-6, TAND TP Đà Nẵng xét xử đối với bị cáo Nguyễn Thị Dung (1985, trú TP Thái Nguyên, Thái Nguyên) về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Theo cáo trạng, vợ chồng ông Nguyễn Văn N. (1958, trú Q. Liên Chiểu, Đà Nẵng) có 1 người con trai nhưng bị mất vì TNGT. Ông N. mong muốn có con nối dõi nhưng do lớn tuổi, khó có khả năng sinh con nên thông qua các mối quan hệ xã hội, đã liên hệ Nguyễn Thị Dung hỏi về việc mang thai hộ. Qua tiếp xúc, Dung nói có khả năng tìm được người cho trứng, mang thai hộ và sinh con cho vợ chồng ông. Để tạo niềm tin với ông N., Dung “chém gió” từng giúp nhiều người có con bằng cách này.
Hai bên thống nhất việc mang thai hộ được thực hiện hai giai đoạn: Giai đoạn một là tìm người cho trứng, kích trứng và tạo phôi với chi phí là 150 triệu đồng; Giai đoạn hai thực hiện việc cấy phôi vào người mang thai hộ đến khi sinh con với chi phí 900 triệu đồng. Dung cam kết nếu không thực hiện được thỏa thuận sẽ trả lại tiền.
Khoảng cuối tháng 12-2021, Dung liên hệ Cấn Thị Hương (1998, trú H. Phúc Thọ, TP Hà Nội) và Lý Văn Hùng (1993, trú TP Thái Nguyên) để thuê thực hiện việc cho trứng, làm thủ tục thụ tinh trong ống nghiệm và mang thai hộ. Để làm thủ tục nhập viện, Dung liên hệ với đối tượng (không rõ lai lịch) trên mạng Internet, mua 1 bản Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn (bản photo) rồi đưa cho Hùng và Hương ký tên vào, sau đó photo, kèm theo giấy tờ cá nhân của hai người này nộp cho bệnh viện vào ngày 30-12-2021.
Sau khi làm các thủ tục kích trứng, lấy tinh trùng, đến khoảng giữa tháng 1-2022 thì có kết quả của bệnh viện xác định trứng của Hương không đạt yêu cầu. Dung tiếp tục nhờ người tên Lê Thị Hằng (chưa rõ lai lịch) đến làm thủ tục kích trứng nhưng vẫn không đạt yêu cầu nên Dung không thực hiện việc này nữa. Tuy nhiên, Dung nói với ông N. việc lấy trứng đã thành công, đang tạo phôi để nhiều lần yêu cầu ông N. chuyển tiền. Từ ngày 7-12-2021 đến tháng 2-2022, ông N. chuyển vào tài khoản mang tên Nguyễn Thị Dung tại Ngân hàng Vietcombank và đưa tiền mặt, số tiền gần 220 triệu đồng.
Khoảng tháng 2-2022, Dung đến Đà Nẵng gặp ông N. nói khoảng tháng 4-2022, sẽ chuyển 2 phôi vào người mang thai hộ. Đồng thời, Dung lên mạng Internet tìm kiếm, khi thấy thông tin Nguyễn Thị Th. (1991, trú tỉnh Yên Bái) là phụ nữ đang mang thai nhưng có nhu cầu cho người khác nhận nuôi đứa con đang mang, Dung liên hệ Th. để xin nhận nuôi con. Sau đó, Dung liên tục nhắn tin cho ông N. cập nhật tình hình tạo phôi, cấy phôi vào người mang thai hộ và tình hình sức khỏe thai nhi. Cùng lúc này, Dung lên mạng Internet tải hình ảnh phiếu kết quả siêu âm thai, dùng phần mềm chỉnh sửa thông tin thai phụ thành Cấn Thị Hương rồi chụp lại hình ảnh, gửi qua Zalo cho ông N.
Khoảng tháng 8-2022, Dung thông báo việc cấy phôi vào người mang thai hộ thành công và mang thai được 3 tháng. Dung yêu cầu ông N. ra Thái Nguyên gặp người mang thai hộ để cùng đến siêu âm tại cơ sở khám tư nhân và được bác sĩ thông báo thai nhi là con trai. Do người đi siêu âm là Th., để tránh sự việc bị bại lộ, Dung không cho ông N. và Th. tiếp xúc với nhau cũng không nói mục đích thật sự của việc đi siêu âm cho Th. biết.
Khoảng tháng 10-2022, thông qua người quen, khi ông N. phát hiện người mang thai hộ không phải là Cấn Thị Hương thì Dung nói người mang thai tên là Nguyễn Thị Th. Để tránh việc ông N. nghi ngờ, Dung tự tạo tài khoản zalo tên “TinTin”, mạo danh Th. để nhắn tin nói chuyện với ông N. về thai nhi. Dung cam kết Th. đang mang thai bé trai có huyết thống của ông N. và hứa hẹn nếu đứa trẻ sinh ra làm xét nghiệm AND không phải con của ông N. thì sẽ trả lại tiền. Ông N. tin tưởng Dung nên từ tháng 2-2022 đến tháng 1-2023 tiếp tục chuyển khoản và đưa tiền mặt cho Dung, tổng cộng 735 triệu đồng.
Ngày 7-2-2023, Dung thông báo Th. đã sinh con và yêu cầu ông N. cung cấp mẫu để xét nghiệm AND. Tuy nhiên, Dung lên mạng Internet tải về hình ảnh Phiếu kết quả, chỉnh sửa thông tin người xét nghiệm là Nguyễn Văn N., có nội dung kết quả xác định không có huyết thống cha, con trai với ông N. và chụp gửi hình ảnh qua Zalo cho ông N. để ông N. tin rằng việc mang thai hộ có diễn ra nhưng vì lý do khách quan dẫn đến việc đứa trẻ không cùng huyết thống. Tổng cộng, Dung nhận của vợ chồng ông Nguyễn Văn N. hơn 1 tỷ đồng. Sau đó ông N. yêu cầu Dung trả lại số tiền 853 triệu đồng nhưng Dung không trả và cắt liên lạc.
Tại phiên tòa xét xử, Dung khai nhận, số tiền lừa đảo chiếm đoạt của vợ chồng ông N. Dung đã “nướng” hết vào tiền ảo và mất hết. Xét toàn diện vụ án, HĐXX tuyên bị cáo Nguyễn Thị Dung 12 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, cộng với 2 năm 2 tháng tù của bản án trước đó, buộc bị cáo phải chấp hành 14 năm 2 tháng tù.
THANH HOA