Ngàn trang thư thấm đẫm tình cha
“Cha đi con nhớ vô cùng!”
Cha ông tên là Trần Sa bị thực dân bắt làm lính thợ Đông Dương ở Pháp khi đang là một nông dân với gánh nặng gia đình, con cái còn nhỏ dại. Nhờ có vốn tiếng Tây học từ bé, ông Sa làm phiên dịch cho một đội lính thợ rồi tham gia du kích, theo Đảng Cộng sản Pháp chống phát xít Đức khi Chiến tranh thế giới thứ 2 nổ ra. 7 năm ở xứ người, ông luôn hăng hái ủng hộ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược ở quê nhà nên giữa năm 1945, bị nhà cầm quyền trục xuất về nước. Bị giam ở nhà lao Hội An, ông trốn thoát và tham gia cách mạng ở địa phương, làm Trưởng Ban Tuyên truyền của H.Duy Xuyên. Sau thời gian nằm vùng, bị địch truy lùng ráo riết, ông Sa ra Bắc năm 1958. Ở Thanh Hóa, do lấn cấn lý lịch từng đi lính Pháp, ông chỉ làm trợ lý chế biến nông trường Sao Vàng nhưng là một người giỏi nghề và là Bí thư Chi bộ gương mẫu, nhận được rất nhiều bằng khen.
Tiến sĩ Trần Văn Sơn bồi hồi kể lại hoàn cảnh viết bức thư gửi cha: “Thuở lên 5, tôi chỉ nghe tiếng nói của ba vài lần thì thầm trong đêm tối khi ông về nhà bí mật lấy đồ tiếp tế. Dẫu vậy, ký ức về cha đẹp mãi từ lời mẹ kể. “Cha đi con nhớ vô cùng!” cũng xuất phát từ tâm tưởng ấy. Năm 1959, bác ruột đưa cho mẹ con tôi thư tay của ba gửi vào theo đường dây, tôi bèn viết lại mấy dòng gửi ông với tên “cúng cơm” Trần Bốn. Mới học lớp 3 trường làng trong vòng kìm kẹp của địch nên chữ nghĩa khá vụng về. Vậy mà ba tôi sung sướng vô cùng, coi như báu vật, đi khoe khắp nơi”.
Biến cố ập đến với cậu bé Trần Văn Sơn khi chứng kiến những người thân trong gia đình lần lượt qua đời, mẹ bệnh nặng phải đi chữa trị ở Sài Gòn. 14 tuổi, anh được bác ruột đưa lên núi làm văn thư cho Trường Đảng tỉnh Quảng Đà. Năm 1968, chàng thiếu niên vượt Trường Sơn ra Bắc. Người anh gặp đầu tiên là cậu ruột. Thế rồi, hơn một tuần sau, người cậu đến cùng với vị khách lạ tự giới thiệu là “đồng hương Duy Xuyên”. Với giọng trầm ấm, ông đã hỏi Sơn hết người này, người kia trong nhà, bảo là có biết trước đây. “Tôi thản nhiên kể hết, còn ông như nuốt từng lời, mắt ngấn lệ vì xúc động. Biết tôi không nhận ra nên cậu tôi không giữ được lâu, nói luôn : “Ba con đấy!”. Tôi sửng sốt giật mình như đang mơ. Hai ba con ôm chầm lấy nhau. Hình như tôi không khóc, chỉ ba khóc bởi tôi đã gặp ba lần nào giữa ban ngày đâu mà biết, đến giọng nói cũng chưa một lần nghe cho rõ. Đêm đó, tôi sụt sịt kể cho ba nghe về sự ra đi của những người thân trong gia đình từ ông, bà ngoại đến các anh chị em. Ba đau đớn vô cùng khi tôi nói về vụ thảm sát của lính Mỹ ở Thanh Châu, quê ngoại, gây cái ra chết của em tôi – đứa con gái mà ba chỉ bế ẵm đôi lần khi em chưa đầy một tuổi. Cả hai anh trai lớn của tôi cũng đã hy sinh, để lại các cháu mồ côi từ khi còn bé. Ba thương tôi vì còn quá nhỏ mà phải chứng kiến những mất mát đau đớn của người thân, gian khổ trên chiến khu hay mấy tháng đi bộ ròng rã để ra đất Bắc. Khuya, ba ôm tôi như cậu bé lên ba, muốn truyền cho tôi tất cả tình cảm thương yêu của người cha đã bao năm không biết mặt con vì chiến tranh”- ông Sơn nhớ lại.
Lời dặn dò qua biên giới
Vốn có nền tảng học giỏi từ nhỏ (đã từng đỗ trường công của tỉnh), Trần Văn Sơn nhanh chóng thích nghi khi được học tập trung ở Từ Hồ (Hưng Yên) dành cho cán bộ miền Nam. Hơn 3 năm ấy, do điều kiện địa lý, phương tiện đi lại khó khăn, hai cha con cũng chỉ được gặp nhau vài lần. Tất cả liên lạc đều qua những trang viết mà cũng không hề dễ dàng. Người cha thì phải xuống tận thị trấn mới có hòm thư, còn cậu con trai thì đợi chủ nhật về Hà Nội ra Bưu điện Bờ Hồ. Ông Sa gửi thư cho con đều đặn gần như hàng tuần, lúc nào cũng tâm tình như hai người bạn. Thường ông coi con như một cán bộ trưởng thành, tự hào về sự chững chạc có hơi “già trước tuổi” của con; lúc thì lại coi Sơn như đứa con nít mới lớn với bao điều dặn dò từ ăn mặc, đi lại đến quan hệ bạn bè, đồng chí v.v... Mỗi một lá thư của cha là liều thuốc tinh thần quý giá giúp Sơn vững tin, học giỏi, hoàn thành lời hứa: “Con sẽ học cho cả phần các anh và em con chưa được học!”.
Ông Trần Văn Sơn đã thực hiện niềm tin của cha mình, không những đậu đại học mà còn đạt số điểm rất cao, được đi học ở Nga năm 1972. Lại những bức thư đi và đến. Đôi mắt người cha luôn dõi theo, động viên con. Chàng sinh viên vào Đảng khi đang học đại học bên nước bạn; được giữ lại làm luận án Phó Tiến sĩ (nay là Tiến sĩ); thành viên Đoàn đại biểu Thanh niên Việt Nam dự Liên hoan Thanh niên thế giới lần thứ XI ở La Havana – Cuba (1978).
Về thăm quê hương sau giải phóng, Trần Văn Sơn không khỏi xúc động khi gặp lại cha từ miền Bắc vào và mẹ can trường chờ đợi chồng con. Nhớ ngày nào mạnh mẽ vượt qua những đau thương mất mát mà giờ khi ôm ba mẹ, mắt anh lại nhòe lệ vì thương cảm và sung sướng nghẹn ngào. Quê hương bị tàn phá xác xơ, gia đình 6 người, giờ chỉ còn có 3. Để có được bữa cơm đoàn tụ anh đã phải chờ đợi tới tận hai mươi bốn năm.
Cứ ngỡ đã có thể gần cha mẹ, bù đắp cho họ tuổi xế chiều nhưng rồi nhiệm vụ của một cán bộ ngành trọng yếu ở Trung ương trong khi vợ thường xuyên đau ốm, con còn nhỏ dại nên người con trai chẳng chăm sóc cho cha mẹ ở quê được bao nhiêu. Những lá thư lại trở thành cầu nối để hai cha con nắm được thông tin của nhau, động viên nhau vượt khó...
Gần 25 năm sau khi đấng sinh thành qua đời, lật lại hàng ngàn trang thư cha gửi, TS Trần Văn Sơn cho rằng mình thật may mắn khi có một người cha tràn đầy năng lượng và chan chứa yêu thương đồng hành cùng con trên mỗi bước trưởng thành.
Hồng Vân