Ngày đầu xét xử vụ án “Buôn lậu” gây chấn động dư luận: Các bị cáo phản cung
(Cadn.com.vn) - Ngày 30-10, TAND TP Đà Nẵng đã mở phiên tòa sơ thẩm xét xử đối với bị cáo Trương Huy Liệu (1958) và Trần Thị Dung (1961, cùng trú số 111, khóm Trung Chín, TT Lao Bảo, H. Hướng Hóa, Quảng Trị) về tội “Buôn lậu”; Đỗ Lý Nhi (1972, trú khu phố Trung Chỉ, P. Đông Lương, TP Đông Hà, Quảng Trị), Lê Xuân Thành (1962, trú số 364-Lê Duẩn, Đông Lương, TP Đông Hà), Đỗ Danh Thắng (1955, trú số 16-Lê Vĩnh Huy, P. Hòa Cường Bắc, Q. Hải Châu, TP Đà Nẵng) về tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”. Đây là vụ án gây chấn động dư luận năm 2011.
Theo cáo trạng, ngày 21-12-2011, Đội Cảnh sát kinh tế - môi trường CAQ Ngũ Hành Sơn, TP Đà Nẵng phát hiện ô-tô BKS 43S-5142, rơ-moóc tải BKS 43R-0866 chở container gỗ, số hiệu GESU 6243717 cho Cty TNHH MTV Ngọc Hưng (Cty Ngọc Hưng), đi từ Chi cục Hải quan (CCHQ) Cảng Cửa Việt đến CCHQ Cảng Đà Nẵng nhưng có vi phạm trong lĩnh vực hải quan, nên Tổng cục đã giao cho CCHQ Cửa khẩu Đà Nẵng phối hợp với Đội 2 Cục Điều tra chống buôn lậu và CCHQ Cửa khẩu Cửa Việt tiến hành khám xét đối với toàn bộ lô hàng của Cty Ngọc Hưng. Kết quả khám xét đã phát hiện Cty Ngọc Hưng nhập lậu và xuất lậu gỗ nên Cục Điều tra chống buôn lậu Tổng cục Hải quan đã khởi tố vụ án hình sự và chuyển hồ sơ vụ án cho Cơ quan CSĐT Bộ CA để điều tra theo thẩm quyền.
Theo đó, kết quả điều tra cho thấy, Trương Huy Liệu với chức vụ Phó Giám đốc Cty Ngọc Hưng đã chỉ đạo các nhân viên Cty Ngọc Hưng lập hồ sơ, chứng từ giả sau đó sử dụng bộ hồ sơ này để buôn lậu 614,672m3 gỗ không rõ nguồn gốc, xuất xứ, trị giá 63.619.706.500 đồng. Hành vi nhập lậu, xuất lậu gỗ của Trương Huy Liệu đã phạm tội “Buôn lậu”, quy định tại điểm a khoản 4 Điều 153 BLHS. Trần Thị Dung - chức vụ Giám đốc Cty Ngọc Hưng đã có hành vi ký các hồ sơ, giấy tờ giả mạo để làm thủ tục nhập kinh doanh gỗ từ Lào vào Việt Nam, sau đó xuất kinh doanh sang Hồng Kông, Trung Quốc. Hành vi của Trần Thị Dung đã phạm tội “Buôn lậu”, quy định tại điểm a khoản 4 Điều 153 BLHS, vai trò đồng phạm với Trương Huy Liệu.
Bị cáo Liệu khẳng định “vợ chồng bị cáo không buôn lậu”. |
Đối với Đỗ Lý Nhi, Lê Xuân Thành - cùng là công chức Hải quan thuộc CCHQ Khu thương mại Lao Bảo, Quảng Trị, được giao nhiệm vụ kiểm hóa lô hàng gỗ xuất khẩu theo tờ khai Hải quan số 849/XK/KD/C32D ngày 19-12-2011 của Cty Ngọc Hưng nhưng đã không làm đầy đủ trách nhiệm được giao, do đó đã không phát hiện được 27 kiện hàng gồm 867 sản phẩm gỗ trắc (1,49m3); 23,828m3 gỗ giáng hương; 224,944m3 gỗ trắc xẻ, trị giá 30.060.814.616 đồng mà doanh nghiệp đã không khai báo khi làm thủ tục hải quan dẫn đến không phát hiện được hành vi buôn lậu của Cty Ngọc Hưng.
Đối với Đỗ Danh Thắng - công chức Hải quan thuộc CCHQ Khu công nghiệp Đà Nẵng, Cục Hải quan TP Đà Nẵng, được giao nhiệm vụ tổ chức việc khám xét theo thủ tục hành chính đối với lô hàng xuất khẩu có vi phạm của Cty Ngọc Hưng những đã không thực hiện đúng các quy định về trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp khám xét theo thủ tục hành chính trong lĩnh vực Hải quan; không làm hết trách nhiệm được giao, gây ra hậu quả đã không phát hiện được 21 container gỗ có vi phạm của Cty Ngọc Hưng. Trị giá lô hàng 61.337.575.000 đồng và gây thất thoát tiền chi phí cho việc bốc lên và dỡ xuống 14 container; chi phí lưu bãi; chi phí niêm phong kẹp chì với tổng số tiền là 1.051.113.000 đồng. Hành vi của bị cáo Nhi, Thành và Thắng đã phạm tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”, quy định tại khoản 2 Điều 258 BLHS.
Tại tòa, sau khi đại diện VKS công bố cáo trạng, bị cáo Liệu không đồng tình với tội danh mà VKSTC truy tố đối với vợ chồng bị cáo. Theo bị cáo trình bày, ngày 17-12-2011 Cty Ngọc Hưng nhập khẩu 535,800m3 gỗ trắc các loại từ Lào về Việt Nam qua cửa khẩu Lao Bảo theo Tờ khai hàng hóa nhập khẩu số 1505/NK/KD/BO33; hải quan cửa khẩu Lao Bảo kiểm tra, xác nhận thông quan; Cty nộp thuế VAT cho Nhà nước 3.206.503.317 đồng. Nếu xác định buôn lậu thì phải buôn qua biên giới và không đóng thuế, tuy nhiên chúng tôi có nộp thuế đầy đủ. Về nội dung trong cáo trạng cho rằng bị cáo lập hồ sơ chứng từ giả mạo, bị cáo Liệu cũng đã bác bỏ.
Căn cứ vào các quy định về hồ sơ hải quan thì trong một bộ hồ sơ hải quan, tờ khai hải quan là bản kê khai của doanh nghiệp có tính pháp lý quan trọng nhất trong quá trình làm thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu một lô hàng. Tờ khai của hải quan là cơ sở pháp lý để Cơ quan hải quan kiểm tra, đối chiếu tính hợp pháp và chấp hành nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp đối với lô hàng đó... Xét về hành chính thì hồ sơ hải quan của lô hàng gỗ trắc nhập khẩu mở tại CCHQ Cửa khẩu Lao Bảo và Hồ sơ nhập khẩu số 849/XK/KD/C32D ngày 19-12-2011 mở tại CCHQ Cửa khẩu Cửa Việt ngày 19-12-2011 của Cty Ngọc Hưng trong đó có tờ khai hàng hóa XNK, hợp đồng kinh tế, lý lịch gỗ, hóa đơn thương mại, phiếu đóng gói, vận đơn đã phản ánh trung thực chủng loại, số lượng, khối lượng lô gỗ... Như vậy không có hồ sơ chứng từ nào là giả.
Các bị cáo tại tòa. |
Về vấn đề số lượng gỗ khi bắt, sau khi giám định đã có kết quả khác nhau, theo bị cáo, các cơ quan chức năng như Viện Sinh thái và tài nguyên sinh vật (STTNSV) và Kiểm lâm vùng II đã áp dụng phương pháp cân trọng lượng gỗ xẻ, gỗ đẽo hộp để quy đổi ra khối lượng là trái với quy định của pháp luật. Khi mua bán gỗ, Cty Ngọc Hưng đã áp dụng phương pháp đo (kể cả đo theo đơn vị ste) đúng với quy định của Bộ NN&PTNT, lô hàng có khối lượng là 535,800m3. Khi giám định, Viện STTNSV lại áp dụng phương pháp cân trọng lượng để quy đổi ra khối lượng, trái với quy định, lô hàng có khối lượng 614,772m3. VKSTC lấy kết quả đo trái với quy định của Nhà nước để cho rằng lô gỗ của Cty Ngọc Hưng có khối lượng là 614,672m3 nhiều hơn thực tế mua bán của Cty với các đối tác Lào và Hồng Kông - Trung Quốc là 78,872m3 và nhiều hơn kết quả giám định lần thứ nhất cũng của chính Viện STTNSV là 161,568m3.
Bị cáo Liệu khẳng định lô gỗ của Cty có số lượng là 75.944 hộp, tanh, long và khối lượng là 535,800m3 chứ không phải là 180.833 hộp, thanh, long như kết quả Viện STTTNSV và CQCSĐT. Khi được hỏi vì sao trong lô hàng bị giữ ngoài gỗ trắc lại có gỗ giáng hương? Bị cáo cho biết bản thân không hề hay biết, vì quá trình mua và bán giữa bị cáo và các đối tác đều lấy uy tín đặt lên hàng đầu, bị cáo mua nguyên kiện và cũng bán nguyên kiện. Tuy nhiên, nếu để lẫn gỗ giáng hương vào lô gỗ trắc sẽ là thiệt cho bị cáo vì thực tế bị cáo đóng thuế cho toàn lô hàng là thuế gỗ trắc (gỗ giáng hương thấp hơn 20 lần so với gỗ trắc). Tại phiên tòa, bị cáo Liệu còn đề nghị được giám định lại ký hiệu dấu búa của Lào đối với toàn bộ lô gỗ.
Bị cáo Trần Thị Dung cho rằng, mọi việc là do bị cáo Liệu thực hiện và tất cả đều hợp lệ, đúng pháp luật chứ không hề có chuyện làm khống, phạm pháp. Bị cáo Dung cũng có chung quan điểm với bị cáo Liệu, đó là không đồng tình với truy tố của VKSNDTC về tội danh đối với hai vợ chồng. Bị cáo Nhi và Thành đều đưa ra các chứng cứ để chứng minh cho việc truy tố của VKSTC là chưa đúng. Các bị cáo đã làm đúng chức trách nhiệm vụ và các quy định của pháp luật. Cụ thể, các bị cáo đã kiểm tra và đánh giá 5% trên tổng số tờ khai hải quan là đúng với quy định.
Trong trường hợp này 5% của 535,800m3 tương đương 26m3, như vậy các bị cáo đã kiểm tra đúng và trong quá trình kiểm tra số lượng này không có dấu hiệu sai phạm nên kết luận là không vi phạm. Cũng tại phiên tòa, bị cáo Lý đã cung cấp những bản ảnh thể hiện rõ ký hiệu dấu búa của Lào mà các bị cáo đã chụp lại trước đó. Như vậy, để chứng minh một điều lô hàng này có xuất xứ từ Lào là phù hợp với hồ sơ, tài liệu. Bị cáo Thắng cũng cho rằng việc truy tố của VKSTC là hoàn toàn không đúng, đồng thời cũng đã đưa ra những chứng cứ để chứng minh cho bản thân bị cáo không vi phạm các quy định của pháp luật...
Hôm nay (31-10), TAND TP Đà Nẵng tiếp tục xét xử vụ án, P.V Báo Công an TP Đà Nẵng sẽ tiếp tục chuyển tải thông tin đến bạn đọc.
Phương Trang