Người chinh phục viên đại tá Pháp
Một chí sĩ người Quảng được giao nhiệm vụ thuyết phục viên đại tá Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Trung kỳ phải ủng hộ cuộc nổi dậy của tổ chức Việt Nam quang phục hội. Đây là nhiệm vụ vô cùng khó khăn, song người sĩ phu trẻ tuổi này đã chinh phục được viên đại tá kỳ cựu. Đó là Lê Đình Dương.
Lê Đình Dương. |
Lê Đình Dương (1893), người làng Đông Mỹ, tổng Khương Thượng , huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, nay thuộc xã Điện Quang, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ông là con trai của Thượng thư Bộ binh -Tổng đốc Hà An, (tức Hà Nội - Hưng Yên) Lê Đình Đĩnh, mẹ là Phan Thị Hiệu. Lê Đình Dương là một chí sĩ thời cận đại nổi danh về chí khí yêu nước thiết tha. Đầu năm 1915, ông tốt nghiệp y sĩ khóa đầu tiên tại Trường Cao đẳng Y khoa Đông Dương Hà Nội, sau đó được bổ nhiệm làm Giám đốc Bệnh viện Hội An. Các anh em ruột của Lê Đình Dương cũng đều đỗ đạt ngành y như các bác sĩ Lê Đình Thám, Lê Đình Kiền, Lê Đình Củng và Lê Đình Quy.
Tháng 9-1915, Lê Đình Dương tự nguyện tham gia vào Việt Nam Quang phục hội, một tổ chức chính trị do nhà yêu nước Phan Bội Châu khởi xướng và thành lập từ tháng 2-1912 tại Quảng Đông, Trung Quốc. Sau một thời gian hoạt động, tổ chức này đã gầy dựng thêm được khá nhiều tổ chức cơ sở khắp các địa bàn cả nước, trong đó Lê Đình Dương gia nhập Việt Nam Quang phục hội của tỉnh Quảng Ngãi, cùng với các ông Lê Ngung, Nguyễn Súy đứng mũi, chịu sào để lãnh đạo phong trào kháng Pháp và tay sai ở nơi đây.
Tham gia tổ chức yêu nước này được chẳng bao lâu thì cuối năm 1915, chí sĩ Thái Phiên triệu tập các nhà lãnh đạo Việt Nam quang phục hội ở các tỉnh Trung kỳ về họp Đại hội lần thứ nhất tại Huế để thảo luận, bàn bạc, chuẩn bị lực lượng, vũ khí chờ thời cơ nổi dậy bạo động. Lúc này Trần Cao Vân cũng vừa hết hạn tù từ côn đảo trở về cùng dự họp. Sau mấy ngày bàn tính, hội nghị quyết định tạm hoãn cuộc khởi nghĩa để tăng cường thêm lực lượng, đồng thời giao Trần Cao Vân tìm cách vận động vua Duy Tân cùng tham gia với Việt Nam Quang phục hội khởi nghĩa. Đến tháng 2-1916, cũng tại Huế, Đại hội lần thứ hai của Việt Nam Quang phục hội được tiến hành và thống nhất đi tới mục tiêu là nổi dậy đánh úp quân thuộc địa Pháp, khôi phục chủ quyền của đất nước. Cũng tại hội nghị này đã chọn ra người cử sang Thái Lan để vận động đại sứ Đức, qua đó nhờ chính phủ Đức giúp đỡ vũ khí, cử Lê Đình Dương bí mật tiếp cận, thương thuyết với viên trung tá người Pháp gốc Đức là Harmaudes đang chỉ huy liên đoàn lính lê dương Pháp đồn Mang Cá hỗ trợ để Việt Nam Quang phục hội khởi nghĩa.
Sở dĩ Lê Đình Dương được giao nhiệm vụ này bởi vì ông là người đã được tổ chức giao giữ chức Tổng trấn Nam Ngãi kiêm cố vấn đặc trách ngoại giao trước khi cuộc khởi nghĩa diễn ra. Biết đây là công việc cực kỳ khó khăn, phức tạp, không thể một mình làm được nên Lê Đình Dương đã nhờ cậy một vị linh mục yêu nước cùng tham gia trong Việt Nam Quang phục hội làm "cầu nối" để được gần gũi với trung tá Harmudes. Thế rồi tuy ở Quảng Nam, Đà Nẵng nhưng Lê Đình Dương liên tục bí mật vượt đèo Hải Vân ra Huế để gặp Harmaudes và vị trung tá gốc Đức này hứa khi nào cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quang phục hội nổ ra thì sẽ cho binh lính hưởng ứng. Bên cạnh đó, Lê Đình Dương còn vận động được một số người Việt dưới quyền của Harmaudes như Đoàn Văn Còn, Nguyễn Đình Trứ, Hà Lai, Phạm Thanh Chương sẽ chỉ huy công phá trấn Bình Đài khi thời cơ đến. Ít lâu sau, trung tá Harmaudes được thăng hàm đại tá với chức Tổng chỉ huy quân đội toàn miền Trung. Harmaudes đã tạo cớ đi phát lương cho binh sĩ để ngầm cổ vũ binh lính người Việt hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quang phục hội...
Tại địa bàn Quảng Nam, Lê Đình Dương cùng với các ông Phan Thành Tài, Trương Bá Huy, Đỗ Tự tích cực vận động nên lực lượng khởi nghĩa đông đúc và mạnh hơn các địa phương khác. Chỉ tính riêng phủ Tam Kỳ đến trước ngày khởi nghĩa đã có 440 phục quốc quân, tân binh. Bên cạnh đó còn vận động thêm đồng bào dân tộc thiểu số ở các vùng rừng núi Phú Túc, Bà Nà (Hòa Vang), Nước Hai (Trà My) chung tay xây dựng các khu căn cứ.
Cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quang phục hội được vua Duy Tân đồng ý chọn đêm mồng 1 tháng 4 năm Bính Thìn, tức ngày 3-5- 1916, song tên công sứ ở Quảng Ngãi phát hiện liền mật điện cho Tòa Khâm sứ Trung kỳ tại Huế. Một phương án phản khởi nghĩa được chúng triển khai nhanh chóng, Khâm sứ Trung kỳ Eugène Charles ra lệnh hạ sát ngay đại tá Harmaudes, 2.500 lính ở các trại chuẩn bị tòng chinh sang Pháp, một lực lượng dự bị sẽ nổi dậy ủng hộ cuộc khởi nghĩa đều được lệnh án binh bất động và bị tước sạch vũ khí đưa vào kho cất giữ. Tuy không nhận được lệnh khởi nghĩa nhưng dân, binh ở phủ Tam Kỳ, Quảng Nam vẫn nổi dậy bao vây Tòa đại lý Pháp và Phủ đường Tam Kỳ, phá kho đạn, song các tên đại lý Pháp và tri phủ đều bỏ trốn. Tại Huế, vua Duy Tân và các nhà lãnh đạo Việt Nam Quang phục hội Thái Phiên, Trần Cao Vân, Lê Đình Dương... đều sa vào tay giặc, cuộc khởi nghĩa thất bại. Lê Đình Dương được đưa vào giam ở Khánh Hòa, bị chúng tra tấn, nhục hình cực kỳ tàn bạo, song ông vẫn giữ vững chí khí kiên cường của một nhà yêu nước chân chính. Không khai thác được gì, quân giặc đày ông lên nhà lao Buôn Ma Thuột. Quyết không chịu chốn lao tù của thực dân, Lê Đình Dương đã uống độc dược, hy sinh năm 1919, mới 26 tuổi.
Cuộc đời và thời gian tham gia nghĩa hội ái quốc của Lê Đình Dương tuy ngắn ngủi, song tên tuổi của ông luôn ngời sáng như một vì sao về tinh thần đấu tranh giải phóng giang sơn, đất nước. Tại địa bàn quận Hải Châu, Đà Nẵng một con đường rộng 9 mét, dài 930 mét từ đường Trần Phú giáp với đường Ông Ích Khiêm đã từ lâu mang tên Lê Đình Dương.
THÁI MỸ