Sống lại nghề đan nón Ca Dong
Do sự thay đổi của tự nhiên và lối sống, chiếc nón đội đầu không còn là hình ảnh quen thuộc gắn bó với tộc người Ca Dong trên vùng Trường Sơn–Tây Nguyên ngày nào. Ấy thế, hiện nay tại thôn 6, xã Trà Bui, cách trung tâm huyện lỵ Bắc Trà My (Quảng Nam) khoảng hơn 40 km về hướng Tây Bắc, vẫn còn tồn tại nghề đan nón thủ công truyền thống của người Ca Dong, mang đậm dấu ấn văn hóa của dân tộc mình.
Chiếc nón luôn gắn bó với người Ca Dong trong cuộc sống hằng ngày trên xã vùng cao Trà Bui.
Ông Hồ Thanh Vân (72 tuổi), dân tộc Ca Dong ở thôn 6, xã Trà Bui, H. Bắc Trà My cho biết: Nghề đan nón thủ công truyền thống của người Ca Dong có từ rất lâu, nó đã giúp người Ca Dong đội chiếc nón trong việc đi làm rẫy, vào rừng săn bắt thú, hái măng, bắt cá, đến mỗi dịp đi thăm bà con, anh em họ hàng ở những làng khác xa xôi,... phòng khi trời mưa nắng. Để hoàn thành một chiếc nón, đầu tiên là đàn ông Ca Dong vào rừng tìm lá dứa rừng (lari sát), thân cây giang (xi ta), chọn những dây mây cám, mây nếp già và cả cây sa ri. Lá dứa được chọn là những lá dứa già, to, không bị rách. Thân cây giang cũng phải già, thẳng, không bị kiến đục lỗ, không bị cụt ngọn. Lá dứa chặt đem về, đem phơi khô cho tới khi ngả sang màu nâu. Cây giang chặt về, chẻ ra thành nhiều miếng để trên giàn bếp cho thật khô. Dây mây chẻ ra thành nhiều sợi chuốt cho trơn đều. Cây sa ri sau khi chặt đem về thì dùng rựa đập lấy vỏ để làm sợi. Khi giang đã khô, người thợ dùng rựa chẻ lấy toàn cật của giang. Mỗi cọng nan phải chẻ thật đều nhau. Kỹ năng và kỷ thuật của người thợ là ở khâu chẻ và vót nan quyết định chiếc nón đẹp hay xấu mà còn ở độ bền của chiếc nón...
Theo tìm hiểu của chúng tôi, nón để người Ca Dong đội thì có hai loại: Loại nón đan theo kiểu nan long mốt (tét mơi) và nan long hai (tét pái) hoàn toàn bằng cật của cây giang, nên thường gọi là nón cây giang (xicul xita). Đây là loại nón rất tốn công. Loại nón đan theo kiểu hình lục giác thì đơn giản. Bởi nón được đan bằng những cật của cây giang và lợp lá dứa rừng, nên thường gọi nón lá dứa (xiculxita). Ngày trước, người Ca Dong cả đàn ông, phụ nữ, thanh niên, thiếu nữ và những em bé đều đội nón. Chiếc nón được đan theo nhu cầu, mục đích sử dụng. Muốn đan loại nón nào, người đan sẽ chẻ nan, chọn lá cho phù hợp với kiểu dáng của nón đó. Tùy thuộc vào từng lứa tuổi và sở thích mà hai loại nón có kích thước cũng khác nhau. Trẻ em Ca Dong (cả nam, nữ) thường thích nón có kích thước 33 X 50 cm, lợp lá dứa rừng (xicul lari sát). Còn người lớn thường đội nón có kích thước 57 X 65 cm, đan toàn cật của cây giang (xicul xita).
Ông Hồ Thanh Vân cho biết thêm: Mặc dù nón của người Ca Dong có hai loại, nên dù đan theo kiểu gì thì công đoạn gầy nan cho hai loại nón này rất quan trọng, không để ra sai sót nhỏ nào. Khi gầy nan, phải chọn chính tâm, nghĩa là những chiếc nan đầu tiên khi gầy phải chính giữa, thì khi đan nó không bị lỗi mà còn tạo nên một liên kết nan liền nhau. Khi đan bề mặt của nón bao giờ cũng khít, cần tránh để lộ những giao điểm hở mà khi gặp phải trời mưa thì nước sẽ thấm ướt. Công đoạn lại múi nan ở phần ngoài cùng của vành của hai loại nón này sao cho khít mà còn tạo thẩm mỹ nữa. Chỉ cần nhìn vào múi nan của vành, người Ca Dong có thể biết được tay nghề của người đan nón đó. Công đoạn cuối cùng là tạo vòng chóp và làm dây quay nón. Vòng chóp được đan bằng sợi của cây sa ri theo kiểu hình xoắn con tít (pót trô). Chiều cao khoảng 3 cm, chiều dài khoảng 50 cm, được kết nối thành một vòng tròn tại tâm của nón có đường kính khoảng 15 cm và được níu bởi hai cọng cây giang dáng hình chữ thập, để khi đội và thắt quai, thì nón không bị xê dịch. Dây nón cũng được làm từ sợi của cây sari, dẻo và rất bền. Loại nón đan theo kiểu hình lục giác pót trô, có thể sử dụng từ 5 – 7 năm. Thường khi chiếc nón hỏng lá, thì được lợp lại lá dứa rừng khác. Còn nón đan theo kiểu nan tét mơi, tét pái thì bền hơn, có thể dùng từ 13 - 15 năm mới hỏng.
Bây giờ ở huyện vùng cao Bắc Trà My này, nơi sinh sống lâu đời của đồng bào dân tộc Ca Dong, một khi đời sống phát triển, cũng như có sự giao thoa văn hóa giữa các vùng miền với nhau. Một số loại mũ, nón bán ngoài chợ rất thông dụng cũng được người Ca Dong mua về dùng. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều đàn ông Ca Dong gắn bó với nghề đan nón thủ công. Nón thủ công của người Ca Dong nơi đây làm ra chủ yếu để trao đổi lấy lúa, gạo, con heo, con gà, đến dụng cụ cái cuốc làm rẫy, cái rựa, con dao đi rừng... Chính vì vậy, hình ảnh chiếc nón luôn theo chân người Ca Dong lên rẫy, vào rừng săn bắn, hái nấm, bẻ măng, xuống suối bắt tôm, cá... Đặc biệt, khi làng vào mùa lễ hội, chiếc nón là vật dụng để đội, vừa là vật trang điểm không thể thiếu trong văn hóa cũng như đời sống hàng ngày của đồng bào dân tộc Ca Dong nơi đây.
Trao đổi với chúng tôi, anh Hồ Văn Cường - Chánh Văn phòng UBND xã Trà Bui chia sẻ: Nhiều năm qua, xã đã xây dựng các phương án bảo tồn văn hóa, trong đó có nghề đan nón thủ công của người Ca Dong trong xã. Thiết nghĩ, các cơ quan chức năng tỉnh Quảng Nam, H. Bắc Trà My cần giúp địa phương mở các lớp truyền dạy nghề đan nón giúp cho nhiều hộ dân cũng như bà con dân làng nâng cao thu nhập và tạo việc làm cho lao động địa phương. Đồng thời, có các biện pháp khuyến khích, hỗ trợ nghề đan nón để nó tồn tại và phát triển. Qua đó lưu giữ và phát huy được văn hóa truyền thống của cộng đồng Ca Dong.
Chia tay, ông Vân bảo với chúng tôi: Đã là người Ca Dong, họ luôn giữ gìn, bảo vệ nét văn hóa truyền thống của cộng đồng, trong đó có chiếc nón. Đó cũng là một cách để chiếc nón không bị mai một. Hy vọng, một ngày nào đó nghề đan nón của đồng bào dân tộc Ca Dong xã Trà Bui sẽ sống lại, không còn phải chịu cảnh đìu hiu như bây giờ. Đó cũng là một cách để nó không bị mai một, để nét đẹp văn hóa của đồng bào dân tộc Ca Dong nơi đây được giữ gìn mãi mãi.
Sơn Gia Phúc