Báo Công An Đà Nẵng

Thơ kể miền thơ dại

Thứ ba, 22/10/2013 10:21

(Cadn.com.vn) - Tôi thật sự bất ngờ khi cầm trên tay tập thơ La đà bướm bay của nhà thơ Nguyễn Kiên, một luật sư tận tụy với nghề, với những câu thơ đầy trăn trở, chiêm nghiệm, lại hóa thân vào thế giới trẻ thơ một cách hồn nhiên và trong trẻo đến lạ kỳ. Anh không làm công việc người lớn viết thơ cho thiếu nhi mà bằng quan sát và hòa nhập vào thế giới tuổi thơ ở xung quanh mình để viết; lời thơ của anh vì vậy rất ít “tì vết” của người lớn mà rất nhiều ý nghĩ, giọng nói và cách nói của trẻ thơ: Em yêu hoa/Em yêu lá/Em yêu quả/Em yêu cành... (Cho em bóng mát).

Nguyễn Kiên nói được một cách thật hoàn hảo giọng nói của các cháu bé ở tuổi lên năm, lên mười: Các bạn bướm/Xòe đôi cánh/Bay la đà/Khoe áo mới... (La đà bướm bay). Hình ảnh các cháu bé trong thơ Nguyễn Kiên thật xinh xắn, dễ thương: Tay bé múa/Mềm như lụa/Mắt long lanh/Mặt xinh xinh (Bé múa). Thế giới trẻ thơ trong thơ của Nguyễn Kiên rất gần gũi với đời sống của các em: ở nhà, đến trường, mời cả nhà ăn cơm, đuổi bướm, hái hoa, múa hát, ngoan ngoãn vâng lời ông bà, cha mẹ, anh chị và đặc biệt là vâng lời cô giáo: Bé bi bô/Khi cô hỏi/Miệng bé nói/Xinh thật xinh/Bé thông minh/Ai cũng quý… (Em thưa cô)... Trong tập thơ này, tôi thích nhất bài thơ Thương chim con đói. Bài thơ là câu chuyện kể của một cháu bé khi thấy một con chim sẻ lót ổ trên cây khế  trước nhà mình,  từ đó, hằng ngày vào ra, cháu đi khe khẽ  bởi ngại con chim mẹ nghe động bay đi xa, bỏ lại đàn chim non bị đói. Nội dung câu chuyện đơn giản, lời thơ tự nhiên, nhưng gây hiệu ứng nhân văn khá cao, khiến ta liên tưởng đến tình người và tình thương yêu loài vật: Hằng ngày vào ra/Em đi khe khẽ/… Em sợ chim mẹ bay xa/Chim con sẽ đói.

Bìa tập thơ "La đà bướm bay".

Trong La đà bướm bay có nhiều bài thơ ghi lại cảm nhận của tuổi thơ về các hiện tượng tự nhiên như  mưa, sấm chớp, con giun đào đất, con nòng nọc lớn lên thành con cóc, con ong đoàn kết giữ tổ; là những đồ vật bình thường mà gần gũi thân thiết như: chiếc đồng hồ, công tắc điện; và đặc biệt là tình cảm của bé thơ với gia đình, với quê hương, đất nước. Ở đó có cây đu đủ, có quả ớt xanh, có đàn bướm bay, có hình ảnh của ngoại với cánh võng tuổi thơ đung đưa ru cháu. Ở đó có chị bế  em  ra bờ biển đợi thuyền cá của ba về. Ở đó có mẹ là mái nhà che nắng mưa và cha là cây cột vững chắc để võng em đung đưa trong giấc ngủ êm đềm. Ở  đó có mái trường thân yêu nấp dưới bóng những hàng cây, mà mỗi sớm mai  trẻ thơ được gặp bạn bè, gặp lớp... Và đây và đó là biển Mỹ Khê mà mỗi hè về “cả nhà đi tắm”, là chiếc cầu quay bắc qua sông Hàn, là một ngày mưa phố phường ngập nước, là em bé Play Ku đi học trong rộn rã tiếng chim kêu; là chú thương binh mà em giúp đưa sang đường, là các chú bộ đội Hải quân đang ngày đêm canh giữ biển đảo quê hương: Chú Hải quân bồng sung/Mắt dõi nhìn phương xa/Đây là đảo Song Tử/Đây: Hoàng Sa, Trường Sa/ (Đảo xa).

Những năm gần đây có một số nhà sử học phương Tây khởi xướng một phương pháp  chép sử mới gọi là Sử kể (Oral history), họ ghi lại lịch sử theo lời kể  của những người trong cuộc và “sử liệu dân gian”, nhằm tránh sự phụ thuộc quá nặng nề vào tài liệu thành văn như các phương pháp nghiên cứu khác. Tôi thấy đó là một hướng nghiên cứu mới. Ngẫu nhiên liên hệ với thơ thiếu nhi của Nguyễn Kiên, tôi gọi La đà bướm bay của anh là Thơ kể miền thơ dại, bởi Nguyễn Kiên nhờ bắt được giọng kể tự nhiên, thơ ngây của trẻ thơ mà có được tập thơ này.

Bùi Xuân