Báo Công An Đà Nẵng

Tọc mạch cùng quá khứ

Thứ ba, 28/01/2025 09:56

1. Viên ngói cũ ở Bà Nà Năm 1995, khi lang thang bên những ngôi nhà cổ còn sót lại trên đỉnh Bà Nà, tôi lội vào một đống đổ nát của biệt thự Hoàng Lan và bất ngờ tìm thấy những viên ngói cũ. Nhặt lấy một viên ngói còn nguyên lành nhất, tôi thấy đó là viên ngói móc sản xuất tại Faifo hồi 1905 của xưởng ngói Lê Minh et fils. Tôi im lặng lấy tờ báo cũ gói lại rồi bỏ vào túi xách mang về… Ít ra ngôi biệt thự xưa này cũng được xây dựng vào năm đó, điều mà khi nghiên cứu tài liệu về khu du lịch Bà Nà của viên đại úy De Bay lúc đó tôi đã chưa tìm thấy. Sau này, khi đọc ký sự Bà Nà của nhà văn Huỳnh Thị Bảo Hòa, cũng không ghi chép gì, mặc dù bà viết loạt phóng sự này từ năm 1931 khá chi tiết và đã từng được in trên Nam Phong tạp chí!

Bà Bảo Hòa năm 1931 lên Bà Nà và viết đoạn mô tả sau đây: “...Người Pháp đã xây dựng các công sở mới, làm nhà mát tiếp lên đông đúc như bây giờ, song những người ở đây duy có người Pháp, còn người Nam chỉ phục dịch mà thôi. Đỉnh núi chia ra từng cụm, cụm nào cũng nhà cửa nguy nga lộng lẫy, đó là các biệt thự của các quan chức đại Pháp, các tòa sở như: Khâm sứ, Đốc lý, Thương chánh, Bưu điện, Y tế; lại còn đồn lính Lê Dương, có nhà giam tù quốc phạm, vân vân. Việc cai trị An Nam thì có viên Bang tá, coi việc tuần phòng dân phu. Mỗi năm khi đến hè thì các quan chức người Pháp lần lượt lên nghỉ mát cho đến tháng Octobre (tháng10) mới thôi, sở nào cũng có nhà riêng; còn như tư gia thì ít lắm, duy có đôi nhà tư bản và thương mại Pháp - Trung Hoa thì có một sở của người Compradore (tư sản) Ngân hàng mà thôi, còn người Việt Nam ta thì từ nhà quyền quý cho đến nhà tư bản cũng tuyệt nhiên không ai có sở nhà nào cả; không rõ vì khó xin đất, hay là sợ tốn tiền và hủ bại, không biết thưởng thức phong cảnh thiên nhiên và di dưỡng thân thể tinh thần, thì thật là đáng lấy làm thương tiếc cho họ lắm. Còn về sự thương mại ở đây có hãng Morin Frères là đắc thể hơn cả, nhà hotel hai tầng nằm trên đỉnh núi cao chót vót, đứng trên trông được khắp mọi nơi. Trong nhà hàng có cơm ăn, có phòng trọ, có chớp bóng, có thể thao, đủ các cuộc tiêu khiển, lại bao cả việc vận chuyển thư từ hàng hóa và kiêm việc mướn kiệu thuê xe nữa. Vì thế nên hễ ai muốn lên ngoạn cảnh cũng phải nhờ hãng Morin thuê mướn xe kiệu cho, còn giá tiền cho thuê phòng ở, cơm ăn rất đắt, mỗi ngày một người phải mất tám chín đồng trở lên mới đủ. Vậy nên chỉ tiện cho người Pháp dùng, còn người Nam thì rất khó. Thiết tưởng Chánh phủ mà muốn ra ơn cho được tiện lợi cả hai đàng, thì trong các sở chỗ nào còn dư đất, Chánh phủ cho làm thêm một sở nhà riêng tùng tiệm cho các viên chức tòng sự liêu thuộc người An Nam, ai đau ốm mệt nhọc được lên đấy nghỉ ngơi điều dưỡng, thì ơn của Chánh phủ ai mà chẳng cảm bội.

Trước cửa nhà hàng Morin có treo tấm bản đồ toàn phong cảnh Bà Nà, du khách có thể xem đó mà biết được đường lối đi các chỗ, vả chỗ này sắp đặt như một công viên nhỏ…”.

Tuyệt nhiên không có dòng nào đề cập đến kiến trúc hay xây dựng tại đây!

Do vậy, việc tôi nhặt được viên ngói cũ trở nên quý giá. Nó chứng tỏ việc xây dựng Bà Nà từ đầu thế kỷ trước đã có bàn tay của người Việt từ Hội An. Tiếc là từ đó đến nay, nhiều lần đến Hội An để hỏi thăm xưởng ngói cũ, nhưng vẫn chưa có kết quả, kể cả ở khu vực làng gốm cổ Thanh Hà cũng chẳng còn ai biết!

2. Cái cối đá bị thương Quê bà nội tôi ở làng La Thọ, bây giờ là xã Điện Hòa, thị xã Điện Bàn. Nghe kể rằng: Thời vua Minh Mạng, nhà vua cho đào một nhánh sông nối từ sông La Thọ để cấp thêm nước cho sông Thanh Quýt. Việc đào sông này đã tạo thêm màu mỡ cho cánh đồng trước nhà bà nội tôi. Cá cua các loại phát triển. Dân làng bắt không xuể. Ông bà cố (sinh ra bà nội tôi) sắm cái cối đá dành riêng cho việc giã các loại cua đồng bắt được để chế biến các món ăn…

Trải qua hơn 200 năm, lòng cối đã mòn nhẵn thành một hố sâu. Chung quanh miệng cối nhiều chỗ đã mòn nhẵn vì những lần mài dao…

Trong cuộc chiến tranh 1960 1975, vùng đất La Thọ bị bao nhiêu lần máy bay ném bom và những trận giáo chiến ác liệt của các phe. Chiếc cối đã nhiều lần bị đạn bắn, đã bể một tay cầm và nhiều vết đạn bắn thẳng bên hông, không sử dụng được. Chiếc cối đã bị vứt bỏ sau hè nhà, lấm lem bùn đất.

Mùa Đông năm 1980, tôi về ăn giỗ ông cố. Lúc lân la sau hè, tôi đã vô tình phát hiện ra chiếc cối bị thương tích ấy, mang đi rửa sạch, và được một người anh em thúc bá của bà nội tôi kể lại lai lịch của nó cùng một thời vùng quê này nghèo khó.

Chỉ là câu chuyện một vùng quê nghèo và chiếc cối đá ngỡ như vô tri ấy, nhưng tôi nghe và hình dung ra những thế hệ ông bà mình đã trãi qua suốt hơn 2 thế kỷ, kể từ khi con sông đào La Thọ xuất hiện để dẫn nước nối từ sông Vu Gia xuống sông Vĩnh Điện Hà để nhập vào sông Hàn, tạo ra một thủy lộ vận chuyển hàng hóa nối Hội An đến cửa Hàn. Trong hình ảnh chiếc cối đá ấy, đã thấm đậm bao là dấu tay, bao là mồ hôi và có khi là cả máu của những ông cha đã chảy xuống trong những cuộc chiến tranh…

Tôi xin chiếc cối đá ấy về đặt trang trọng trong phòng viết của mình, như một vật gia bảo gắn liền số phận một gia đình với lịch sử của vùng đất quê nhà...

Những kỷ vật nối hiện tại và quá khứ.

3. Kỷ vật nhà ngoại Trong vườn nhà tôi vẫn đang giữ cái chum đựng lúa đúc bằng xi-măng và chiếc cối giã gạo. Cái chum do ông cậu tôi đúc khoảng năm 1930, còn cái cối tạc bằng đá Non Nước, mẹ tôi kể do ông ngoại tôi mua từ chân núi Ngũ Hành Sơn và thuê người khiêng về từ cuối thế kỷ XIX !

Thuở nhỏ, tôi thường ở bên nhà ngoại với cậu mợ và các chị, vì là con đầu của mẹ và hai nhà nội ngoại lại sống gần nhau.

Sau chiến tranh, chị con dâu trưởng của cậu Hai tôi về xây dựng lại căn nhà tranh trên nền nhà cũ của ngoại, đã kể lại: Nhà cửa thì cháy rụi nhưng rất lạ, cả cái cối đá và cái chum thì còn nguyên, không một dấu sứt mẻ dù bom đạn. Cũng nhờ chúng, mà suốt những năm bao cấp, chị tôi đã đi mua lúa về chứa và giã gạo gánh đi bán khắp các xóm thôn để nuôi bầy con.

Chị còn kể lại: Tôi được cậu mợ giã gạo trong cái cối đá đó, nấu cháo cho ăn cho đên lúc 5 tuổi. Những hôm trời lạnh còn được bồng vào nằm trong chum để khỏi mưa lạnh. Mùa lụt thì tôi được ưu tiên leo vào lòng chum đang trôi nổi trong ngôi nhà ngang của cậu cho an toàn khi nước lụt vào nhà. Mẹ tôi là con út, lấy chồng trong xóm nên tôi được cậu mợ thương lây!

Trước khi chị dâu tôi qua đời, một lần tôi nói đùa: “em gắn bó với nhà ngoại vậy chị cho em hai vật ni để giữ lại làm kỷ niệm?”. Chị dâu tôi đồng ý ngay.

Thời gian trôi qua, câu nói nửa đùa ấy tưởng đã quên, nào ngờ khi chị tôi qua đời độ nửa tháng, đứa con đầu của chị dùng xe bò kéo cả chum và cối ra nhà tôi.

Cháu nói: Mẹ dặn chở ra cho chú!

Nước mắt tôi lăn dài trên má ành khi nghe câu nói đó...

Tôi vịn tay vào chiếc chum và cái cối đá, mà ngỡ như có cả dòng máu nóng của cả gia đình nhà ngoại tôi trong đó. Trong hơi nóng ấy, có cả mơ ước của gia đình ngoại tôi dành cho con cháu đời sau…

# # #

Từ viên ngói trên đỉnh Bà Nà đến những cái cối đá và cái chum cũ mà tôi, vì tọc mạch đã nhìn thấy và giữ gìn cho đến ngày nay như đã được nối lại từ một dòng chảy của quá khứ. Chúng vẫn im lìm nằm đâu đó và đang chờ cất lên tiếng nói của con người, của lịch sử. Cho nên, có lúc tôi đã trầm ngâm ngắm nhìn và hồi tưởng, một mình...

TRƯƠNG ĐIỆN THẮNG