Trả hồ sơ điều tra bổ sung vụ án nữ đại gia “siêu lừa” Huỳnh Thị Châu
Như Chuyên đề Công an TP Đà Nẵng đã thông tin, đầu tháng 8-2019, Huỳnh Thị Châu được ông Nguyễn Hoài N. giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất của ngôi nhà 27- Lê Vĩnh Huy (P. Hòa Cường Bắc, Q. Hải Châu, Đà Nẵng) để làm giúp thủ tục phân chia thừa kế đối với phần di sản của bà Lê Thị Vân L. để lại. Ngay sau khi nhận được giấy tờ nhà đất từ ông N., Huỳnh Thị Châu đã thông qua môi giới rao bán ngôi nhà trên. Ngày 6-9-2019, chị Cao Thị T.L (1982, trú Q. Thanh Khê, Đà Nẵng) thỏa thuận với Châu về việc mua nhà đất nói trên với giá 7,2 tỷ đồng. Thỏa thuận xong Châu đưa cho chị L. xem bản gốc giấy tờ nhà đất của ngôi nhà trên và cho hay đang chờ làm thủ tục thừa kế sẽ sang tên cho chị L. Sau nhiều lần nhận cọc với số tiền 2,5 tỷ đồng, Châu không thực hiện việc chuyển nhượng.
Tiếp đó, từ cuối năm 2021 đến đầu năm 2022, Châu nhiều lần lừa đảo chiếm đoạt của chị Dương Thị K.D (1972, trú Q. Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng) số tiền 10,9 tỷ đồng. Cụ thể, mặc dù không phải là chủ sử dụng đất nhưng Huỳnh Thị Châu liên tục nhiều lần thông qua việc nhận cọc tiền mua bán đất tại H. Hòa Vang (Đà Nẵng) và tại H. Đại Lộc (Quảng Nam) để chiếm đoạt của chị D. Tổng số tiền Huỳnh Thị Châu chiếm đoạt của chị L. và chị D. là 13,4 tỷ đồng.
Tại phiên tòa, bị cáo Huỳnh Thị Châu bác bỏ toàn bộ nội dung cáo trạng, bị cáo cho rằng cáo trạng cáo buộc bị cáo phạm tội lừa đảo là không đúng. Trong suốt quá trình xét hỏi, tất cả lời khai của bị cáo làm tất cả những người có mặt tại khán phòng đều ngao ngán bởi sự “lộng ngôn” của bị cáo.
Sau 2 ngày xét xử, HĐXX xét thấy cần phải điều tra làm rõ chứng cứ mới phát sinh tại phiên tòa và phải điều tra làm rõ thêm một số vấn đề khác của vụ án mà không thể bổ sung, làm rõ tại phiên tòa được. Có dấu hiệu cho rằng còn có đồng phạm khác và hành vi khác mà BLHS quy định là tội phạm liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Vì vậy quyết định trả hồ sơ VKSND TP Đà Nẵng để điều tra bổ sung.
Theo đó, kết luận điều tra (KLĐT) và cáo trạng xác định đến ngày 24-10-2019 bị cáo chiếm đoạt của chị L. 2,5 tỷ đồng thông qua giao dịch nhận cọc liên quan nhà đất tại số 27- Lê Vĩnh Huy và từ ngày 5-11-2021 đến ngày 21-2-2022 chiếm đoạt của bà D. 10,9 tỷ đồng.
Ngày 5-4-2022 bà D. đã có đơn tố giác tội phạm bị cáo Châu lừa đảo chiếm đoạt và đã được cơ quan điều tra thụ lý đơn. Từ cuối tháng 6-2022 đến ngày 29-7-2022 trong thời gian đang thực hiện Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của vụ án liên quan đến bà L. thì bị cáo Châu đã nhiều lần lên TP Đà Lạt (Lâm Đồng) để thực hiện giao dịch nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại P. 7 (TP Đà Lạt) của bà Lê Thị Diệu L. với giá gần 5,5 tỷ đồng, đứng ra giao dịch là bị cáo nhưng người đứng tên giao nhận chuyển nhượng và đứng tên trên GCNQSDĐ lại là Nguyễn Huỳnh Kim Ng.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo vẫn khai đất đó là do bị cáo đứng ra giao dịch với bà L. và người môi giới, nhưng thực chất bị cáo chỉ đứng ra giao dịch giúp cho em gái là Huỳnh Thị T. và cháu Nguyễn Huỳnh Kim Ng.; còn Ng. và bà T. vẫn khai và xác định đất đó là do gia đình bà T. bỏ ra nhờ Châu giao dịch mua giùm và không đồng ý với việc kê biên lô đất này để đảm bảo thi hành án. Vì vậy, HĐXX yêu cầu điều tra bổ sung để xác định hành vi của bị cáo Châu và những người có liên quan có dấu hiệu phạm tội “Rửa tiền” theo quy định tại Điều 324 BLHS hay không?
Ngoài ra, KLĐT và bản cáo trạng đều xác định việc đặt cọc và nhận cọc giữa bị cáo Châu và bà D. đều thông qua người môi giới là bà Nguyễn Thị Minh Ng. Vì vậy, HĐXX yêu cầu điều tra xác định Nguyễn Thị Minh Ng. có đồng phạm với bị cáo Châu trong việc đưa ra thông tin gian dối để chiếm đoạt tài sản của bà D. hay không?
THANH HOA