Tương lai, Việt Nam sẽ thiếu khoảng 4,3 triệu phụ nữ
(Cadn.com.vn) - Đó là một trong những nội dung chính được đề cập tại Hội thảo chuyên đề hưởng ứng Chiến dịch truyền thông về mất cân bằng giới tính khi sinh năm 2015 với chủ đề “Không phân biệt giới, không lựa chọn giới tính thai nhi” do Tổng cục Dân Số- KHHGĐ (Bộ Y tế) phối hợp với Hội Nhà báo Việt Nam tổ chức ngày 24-9 tại TP Đà Nẵng.
TS Lê Cảnh Nhạc – Phó Tổng cục trưởng Tổng cục DS-KHHGĐ phát biểu tại hội thảo. |
Nhiều nam giới sẽ không có khả năng kết hôn
Theo bác sỹ Mai Xuân Phương, Phó Vụ trưởng Vụ Truyền thông – Giáo dục (Tổng cục DS-KHHGĐ), tỷ số giới tính khi sinh (TSGTKS) tại Việt Nam đang ở mức cao, tăng nhanh, ngày càng lan rộng và tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh (MCBGTKS) xảy ra cả ở thành thị (114,2%) và nông thôn (111,1%), một số tỉnh có TSGTKS ở mức rất cao. Theo đó, TSGTKS của Việt Nam từ năm 2006 đến nay luôn ở mức hơn 110%, liên tục tăng và được dự báo sẽ còn tiếp tục tăng lên…
Theo kết quả điều tra cho thấy khát vọng có con trai của nhiều gia đình rất mãnh liệt và các bà mẹ đã sớm lựa chọn giới tính của con ngay lần mang thai đầu tiên. Thống kê của Tổng cục Dân số - KHHGĐ năm 2014, 6/6 vùng có tình trạng MCBGTKS, cao nhất ở vùng đồng bằng sông Hồng (115%) và thấp nhất ở vùng đồng bằng sông Cửu Long (108,5%). Đồng thời, mức độ MCBGTKS cao hơn nhiều ở những cặp vợ chồng có trình độ học vấn cao, tình trạng kinh tế gia đình khá giả. Bác sỹ Mai Xuân Phương cho rằng, nguyên nhân trực tiếp của tình trạng này được xác định là do lạm dụng những tiến bộ khoa học công nghệ để thực hiện lựa chọn giới tính như: áp dụng ngay từ lúc có thai (chế độ ăn uống, chọn ngày phóng noãn); trong lúc thụ thai (chọn thời điểm phóng noãn, chọn phương pháp thụ tinh, lọc rửa tinh trùng để chọn tinh trùng mang nhiễm sắc thể Y…) hoặc khi đã có thai (sử dụng siêu âm, bắt mạch, chọc hút dịch ối…) để chẩn đoán giới tính. Nếu là thai trai, họ để lại, nếu thai gái, bỏ đi… Ngoài ra, còn có nhóm nguyên nhân phụ trợ khác như: do áp lực giảm sinh, mỗi cặp vợ chồng chỉ sinh 1-2 con, nhưng lại mong muốn trong số đó phải có con trai. Do nhu cầu phát triển kinh tế gia đình: nhiều công việc nặng nhọc như khai thác khoáng sản, đi biển đánh bắt xa bờ… đòi hỏi sức lao động cơ bắp của con trai. Do chế độ an sinh xã hội chưa đảm bảo, hiện nay trên 70% dân số nước ta còn sống ở nông thôn, hầu hết không có lương hưu khi về già, họ cần sự chăm sóc, phụng dưỡng của con cái mà theo quan niệm, trách nhiệm này chủ yếu thuộc về con trai. Bên cạnh đó, chính sách ưu tiên của nữ giới cũng chưa thật thỏa đáng.
Cũng theo bác sỹ Mai Xuân Phương, với tình trạng gia tăng TSGTKS sẽ dẫn tới những hệ lụy khó lường về mặt xã hội, kinh tế, thậm chí cả an ninh chính trị,… khi các nam nữ thanh niên bước vào độ tuổi kết hôn (ở Việt Nam, thời điểm này sẽ bắt đầu xảy ra vào khoảng năm 2025). “Các nhà nghiên cứu dự báo rằng, trong tương lai, Việt Nam sẽ thiếu khoảng 2,3-4,3 triệu phụ nữ. Trước hết, tình trạng “dư thừa” nam giới trong độ tuổi kết hôn có thể sẽ dẫn tới tan vỡ cấu trúc gia đình, một bộ phận nam giới sẽ phải kết hôn muộn và nhiều người trong số họ không có khả năng kết hôn. Việc gia tăng TSGTKS không những không cải thiện được vị thế của người phụ nữ mà thậm chí còn làm gia tăng thêm sự bất bình đẳng giới như: nhiều phụ nữ phải kết hôn sớm hơn, tỷ lệ ly hôn và tái hôn của phụ nữ sẽ tăng cao, tình trạng bạo hành giới, mua dâm, buôn bán phụ nữ sẽ gia tăng,…”, bác sỹ Phương nhấn mạnh.
Nâng cao đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ y tế
TS Lê Cảnh Nhạc – Phó Tổng cục trưởng Tổng cục DS-KHHGĐ cho rằng, trong thời gian tới, cần xây dựng và tổ chức thực hiện các chuẩn mực giá trị xã hội mới tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy bình đẳng giới, loại trừ dần nguyên nhân sâu xa của hiện tượng lựa chọn giới tính khi sinh. Đồng thời, cần xây dựng, thử nghiệm và thực hiện các chính sách mang lại lợi ích trực tiếp cho các gia đình sinh con gái và hệ thống các chính sách hỗ trợ nâng cao vai trò, vị thế của phụ nữ và trẻ em gái, đặc biệt là trẻ em gái trong các gia đình sinh con một bề gái và cha mẹ của các em. Sửa đổi, bổ sung và thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội cho người cao tuổi để thúc đẩy nhanh sự chấp nhận các giá trị bình đẳng giới trong đời sống gia đình và xã hội. Bên cạnh đó, nâng cao hiệu lực thực thi pháp luật về nghiêm cấm các hình thức lựa chọn giới tính thai nhi thông qua nâng cao tinh thần trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp, tuân thủ các quy định của pháp luật về nghiêm cấm lựa chọn giới tính thai nhi cho đội ngũ cán bộ y tế. Cũng như, hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật về kiểm soát MCBGTKS và các nội dung có liên quan theo hướng quy định chi tiết và cụ thể hơn. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm các quy định về nghiêm cấm lựa chọn giới tính thai nhi. Đặc biệt, cần thiết lập hệ thông tin về kiểm soát TSGTKS nhằm thu thập, xử lý, phân tích thông tin về MCBGTKS và các thông tin có liên quan (bà mẹ mang thai, cơ sở cung cấp dịch vụ liên quan đến chẩn đoán và lựa chọn giới tính thai nhi) phục vụ yêu cầu…
Lê Hùng