100 ngày vượt Trường Sơn (2)
Xem lại ky trước: 100 ngày vượt Trường Sơn
Kỳ 2: Những ngày đầu hành quân lên Trường Sơn
(Cadn.com.vn) - Ngày đầu chúng tôi đi theo đường 14 từ lúc trời chưa sáng rõ. Mới đi bộ vài tiếng mà đứa nào mồ hôi cũng vã ra như tắm. Hai vai tê dại. Chiếc balô căng phồng với trăm thứ đủ cho một người lính ra trận như quần áo, võng bạt, tăng, màn, chăn, lương khô, 4 gói muối bột, ruốc bông, thịt hộp, hộp thuốc bệnh, bao tượng hơn 5 cân gạo vắt vai. Số gạo ấy đủ ăn trong một tuần. Rồi còn xẻng, cuốc, xà-beng thìa để đào hầm cài xung quanh người; súng AK, đạn, 4 quả lựu đạn, dao găm, bình tong nước, bát đũa, đèn pin... Tính ra mỗi người phải mang tới gần 40kg. Ai đến phiên “trực nấu cơm” của tiểu đội còn phải mang thêm chảo, soong,... rất kềnh càng, khó khăn.
Cả tuần hành quân bằng ô-tô không biết nặng. Bây giờ chiếc ba lô như một hòn núi trên vai. Mấy tiếng đầu thì còn đi đứng “oai hùng” lắm, vài tiếng sau là lết từng bước. Tôi gầy gò nhỏ bé (chỉ nặng 40kg), Đảm thấy thương nên ngày nào cũng mang hộ súng, gạo. Vậy mà tôi vẫn cứ đi sau cùng tiểu đội. Chúng tôi đi tới 8 tiếng đồng hồ mới tới Trạm T6, trạm đầu tiên trên đất Hướng Hóa, Quảng Trị. Tới nơi đứa nào chân cũng nặng như đổ chì. Có đứa chỉ cần ngả lưng bên đường, lưng tựa vào balô là ngáy. Giao liên phổ biến đã có rất nhiều người ngủ quên, đơn vị đi mất, thành lính “thu dung”, lạc đơn vị.
Mấy hôm nay Hiệp định
Hai đứa chặt cây làm đòn khiêng, buộc tăng vào, xuống suối lấy nước. Nước cáng về đổ vào một cái hố đào vội, lót tăng để dự trữ. Cáng đủ nước lên dốc đến chỗ trú quân bở hơi tai. Lại phải đào bếp Hoàng Cầm để “nấu không khói”. Bếp Hoàng Cầm là loại bếp đào xuống đất, có chỗ cho củi vào, bắc nồi lên là ánh lửa không lọt ra ngoài, khói được dẫn bằng một đường ngầm phủ lá rừng dài để khói lan trên mặt đất chứ không lên cao. Phải nấu hai chảo cơm. Một chảo để ăn ngay, một chảo để làm cơm nắm mai mang đi ăn buổi trưa. Rồi phải nấu canh, nấu nước cho anh em đổ đầy bình tông.
Tất cả những việc ấy chỉ được làm trong thời gian ngắn theo lệnh Tiểu đoàn. Khi một tiếng, có khi chỉ 40 phút, vì sợ máy bay do thám OV10 phát hiện ra. Có bữa cơm vừa chín là phải hành quân, phải khiêng chảo cơm vừa đi vừa ăn... Loại máy bay OV10 này chỉ có cái buồng lái ở phía đầu, còn toàn thân rỗng, đạn khó bắn trúng. Nó cứ vè vè suốt ngày trên đầu mình. Phát hiện ra dấu hiệu khả nghi là nó gọi máy bay đến ném bom ngay, nguy hiểm lắm.
Dọc đường hành quân, thỉnh thoảng tôi thấy những nấm mộ bên đường. Có nấm mộ như mới chôn hôm qua, có mảnh ni-lông ghi tên tuổi một cô gái, quê quán... Quảng Bình quê tôi! Giao liên bảo đó là mộ cô thanh niên xung phong hy sinh tuần trước. Ôi, em nằm đây bao giờ mới về quê mạ?...
10 ngày ròng rã chúng tôi hành quân ở Hướng Hóa, miền Tây Quảng Trị. Núi cao hiểm trở. Khổ nhất là vượt dốc 1001 trên đường 14. Từ sáng sớm leo lên, đến tối mịt mới sang bên kia chân dốc. Có khi phải bấm ngón chân leo qua các triền núi đá. Chúng tôi ngày nào cũng phải vượt dốc, có ngày phải vượt tới 10 cái dốc, đầu gối đau ê ẩm. Cũng có ngày được đi chung đường với ô-tô vận tải, gặp chị em thanh niên xung phong đang lấp hố bom, mùi bom còn khét lẹt. Họ làm việc vất vả, nguy hiểm thế, nhưng thấy đoàn lính trẻ mới từ Bắc vào, các cô lại cất tiếng hò Sông Mã: "Miễn là anh có lòng thương.
![]() |
|
Bộ đội qua cầu khỉ trên đường Trường Sơn. |
Giữa đất cũng đặng chiếu giường mà chi", rồi đấm vai nhau cười vang rừng. Giao liên giục đi nhanh, sợ máy bay địch quay lại, nhưng anh em thì mang nặng nên tốc độ rất chậm. Có khi một ngày chỉ đi được vài chục cây số. Mấy ngày này mưa liên miên. Mưa Trường Sơn thật kinh khủng. Trời cứ như nghiêng thùng nước đổ vào đầu người vậy. Mùa mưa chỉ có người đi bộ có thể đi được, còn vận tải ô-tô, hoặc xe thồ rất khó khăn vì sông suối đều dâng ngập, đường lầy lội.
Chúng tôi nghe anh em ở Binh trạm kể rằng, từ năm 1968, các nhà khoa học Mỹ đã làm mưa nhân tạo để kéo dài vô hạn mùa mưa trên đường Trường Sơn bằng cách tạo mây để hạn chế vận chuyển của quân ta từ Bắc vô Nam. Mây được tạo trong không trung bằng các đám khói bạc iodide và sau đó được kích hoạt bằng một mồi nổ bắn ra từ súng bắn pháo sáng. Việc làm mưa nhân tạo được thực hiện cho đến giữa năm 1972, nhưng cũng không ngăn được người và xe từ miền Bắc vẫn tấp nập lên Trường Sơn...
Chiều, đơn vị chúng tôi dừng chân bên một con sông dâng đầy nước. Ở đây có dấu vết của những ngôi nhà đổ nát và những vạt rau khoai lang, chứng tỏ một bản dân tộc đã dời đi. Mấy đứa thấy rau lang thì mắt sáng lên, không kịp cởi ba lô, tranh nhau hái. Khi nghe giao liên cho biết đây là sông Sê Băng Hiêng, Võ Văn Đảm nước mắt giàn giụa, rồi khóc hu hu như trẻ con. Đảm nói, sông Sê Băng Hiêng là đầu nguồn sông Hiền Lương, con sông giới tuyến. Nhà Đảm ở xã Vĩnh Giang, ngay sát bờ bắc sông. Thế mà Đảm chưa một lần qua cầu Hiền Lương.
Đến tuổi bộ đội phải vượt sông bằng đường Trường Sơn! Đảm cởi quần áo, nhảy ùm xuống sông, rồi ngẩng lên, hướng về phía Đông, gọi to: "Mạ ơi, con vô đến sông Hiền Lương đây rồi! Đánh xong giặc con về với mạ!". Mấy đứa chúng tôi cũng không cầm được nước mắt. Chao ôi, Đảm phải vào tận miền Đông Nam Bộ, đánh giặc xong rồi, nếu còn sống lại đi ra cả ngàn cây số nữa để qua cầu Hiền Lương về với mạ! Giờ đây chỉ vài chục cây số thôi mà không sao về thăm nhà...
Bữa cơm tối nay có rau lang luộc chấm với nước muối mà ngon miệng như ăn cao lương mỹ vị. Cấp dưỡng nấu một đứa hơn nửa ký gạo mà cơm hết vèo từ khi nồi hãy còn bốc khói. Vì đã nửa tháng rồi không rau tươi, thèm lắm...
Hồi ức của nhà thơ Ngô Minh
Kỳ 3: Đón Tết giữa rừng







