Bức tranh thực trạng và định hướng, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2021-2025

Thứ hai, 12/10/2020 16:41

Đồng chí HỒ KỲ MINH

Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy,

Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố

Nhiệm kỳ 2015-2020 chứng kiến tình hình kinh tế - xã hội thế giới, khu vực và trong nước với nhiều diễn biến phức tạp, nhất là ảnh hưởng toàn cầu của đại dịch COVID-19 từ đầu năm 2020. Cùng với sự chỉ đạo sâu sát, kịp thời của Trung ương; Đảng bộ, chính quyền và người dân thành phố Đà Nẵng đã tập trung phát triển thành phố theo 3 hướng đột phá chiến lược kinh tế - xã hội của thành phố Đà Nẵng[1], quyết liệt thực hiện các giải pháp bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh... Đà Nẵng luôn nằm trong nhóm 5 địa phương dẫn đầu trong bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh của các tỉnh/thành phố (PCI); 11 năm liên tiếp dẫn đầu cả nước về chỉ số sẵn sàng ứng dụng công nghệ thông tin (ICT Index); là địa phương liên tục được xếp trong nhóm đứng đầu bảng xếp hạng cải cách hành chính. Có thể khẳng định, kinh tế - xã hội thành phố giai đoạn 2015-2019 duy trì ổn định và phát triển tương đối toàn diện, đạt được nhiều thành tựu quan trọng; Đồng thời, trong năm 2020, thành phố cũng đã thực hiện tốt “nhiệm vụ kép”, vừa phòng, chống dịch bệnh, vừa phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội. Trong bài viết này chúng tôi trình bày một số nét nổi bật trong bức tranh thực trạng và một số định hướng, giải pháp nội bật trong phát triển kinh tế - xã hội thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2020-2025.

Kết quả phát triển các lĩnh vực kinh tế

Nhìn chung, nhiệm kỳ qua kinh tế thành phố duy trì được nhịp độ tăng trưởng khá, gắn với ổn định cơ cấu và chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP, giá so sánh 2010) giai đoạn 2016-2019 tăng bình quân khoảng 7,5%/năm, với quy mô GRDP (giá hiện hành) năm 2019 ước đạt khoảng 110.792 tỷ đồng, gấp 1,5 lần so với năm 2015; GRDP bình quân đầu người (giá hiện hành) năm 2019 ước đạt 95,7 triệu đồng (4.095 USD), gấp 1,3 lần năm 2015. Cơ cấu kinh tế theo khu vực ổn định theo đúng định hướng với khu vực dịch vụ 64,3%; khu vực công nghiệp - xây dựng 22,7%; nông nghiệp 1,8%; thuế sản phẩm (trừ trợ cấp sản phẩm) 11,2%[2]. Riêng năm 2020, do tác động mạnh và tiêu cực của đại dịch COVID-19, dự báo GRDP (giá so sánh năm 2010) sẽ tăng trưởng âm khoảng 9,26%, trong đó chỉ có khu vực thủy sản - nông - lâm tăng trưởng trên 2,5%, khu vực dịch vụ, khu vực công nghiệp và xây dựng đều tăng trưởng âm (lần lượt khoảng 8,0% và 11,5%). GRDP năm 2020 (giá hiện hành) chỉ đạt khoảng 102 ngàn tỷ đồng, giảm hơn 8 ngàn tỷ so với năm 2019, tương đương với GRDP năm 2018; GRDP bình quân đầu người (giá hiện hành) đạt khoảng 3.693 USD thấp hơn so với năm 2018 và 2019 (lần lượt là 3.935, 4.156 USD).

 
 

Biểu đồ 1: So sánh GRDP (tỷ đồng, giá so sánh 2010) cơ cấu theo khu vực kinh tế giai đoạn 2015-2020.

Các thành phần kinh tế phát huy vai trò trong định hướng phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, các loại hình doanh nghiệp tư nhân và có vốn đầu tư nước ngoài đã từng bước khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế[3].

Các lĩnh vực dịch vụ, du lịch, thương mại có vị trí ngày càng quan trọng với các ngành dịch vụ chất lượng cao, có lợi thế cạnh tranh. Thành phố đã ban hành và triển khai khá hiệu quả Đề án Phát triển mạnh các ngành dịch vụ đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2035. Giá trị gia tăng khu vực dịch vụ giai đoạn 2015-2019 ước tăng bình quân trên 8,5%năm, trở thành động lực phát triển kinh tế thành phố.

 
 

Đồng chí Nguyễn Văn Quảng, Phó Bí thư Thường trực Thành ủy (thứ 3 từ trái sang) kiểm tra dự án Cải tạo cụm nút  giao thông phía tây cầu Trần Thị Lý.

 

Dịch vụ du lịch phát triển trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, bước đầu đưa Đà Nẵng trở thành điểm đến du lịch của khu vực và cả nước, có khả năng cạnh tranh quốc tế và đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Tổng lượt khách du lịch đến thành phố giai đoạn 2016-2020 tăng bình quân trên 15%/năm; trong đó, khách quốc tế gần 26%/năm; số lượt khách cơ sở lưu trú phục vụ giai đoạn 2016-2019 tăng bình quân 21,8%/năm (khách quốc tế tăng gần 50%/năm); doanh thu dịch vụ lưu trú và lữ hành tăng bình quân trên 16%/năm[4].

 
 

Biểu đồ 2: Kim ngạch xuất - nhập khẩu giai đoạn 2016-2020 (triệu USD)



Thành phố tiếp tục khuyên khích, tạo điều kiện để các doanh nghiệp phát triển sản phẩm du lịch nghỉ dưỡng biển cao cấp trở thành sản phẩm du lịch chủ lực; thu hút nhiều dự án du lịch lớn, tầm cỡ, hình thành hệ thống cơ sở lưu trú chất lượng cao quốc tế do các tập đoàn khách sạn hàng đầu thế giới trực tiếp quản lý như: Trung tâm hội nghị quốc tế Ariyana, khách sạn Sheraton, Khu nghỉ dưỡng InterContinental Danang Sun Peninsula, Nam An Retreat...; luôn tăng cường xúc tiến, quảng bá du lịch, mở các đường bay quốc tế trực tiếp đi và đến Đà Nẵng; ký kết Chương trình hợp tác, liên kết với nhiều địa phương trong nước và các cơ quan quản lý du lịch và doanh nghiệp du lịch quốc tế. Đến năm 2020, có 40 đường bay quốc tế đến Đà Nẵng với tần suất 480 chuyến/tuần, tăng 20 đường bay so với năm 2015 và 8 đường bay nội địa với tần suất 647 chuyến/tuần.

Các sự kiện lớn mang tầm quốc tế được thành phố đăng cai tổ chức thường xuyên, từng bước hình thành thành phố “sự kiện”. Năm 2017, Tuần lễ Cấp cao APEC-2017 tổ chức tại Đà Nẵng, với sự tham gia của lãnh đạo 21 nền kinh tế và các doanh nghiệp hàng đầu thế giới, đã thu hút hơn 10.000 đại biểu. Việc tổ chức thành công toàn diện Tuần lễ Cấp cao APEC 2017 và các sự kiện lớn khác của thành phố trong các năm qua (Lễ hội pháo hoa quốc tế, Cuộc thi Marathon Quốc tế, Hội nghị thượng đỉnh Thành phố thông minh…) cho thấy khả năng đáp ứng các điều kiện về nhân lực, hạ tầng và sẵn sàng tổ chức các sự kiện mang tầm quốc tế của Đà Nẵng; để lại nhiều ấn tượng sâu sắc về hình ảnh thành phố Đà Nẵng năng động, thanh bình, mến khách; mở ra nhiều cơ hội mới cho đầu tư phát triển thành phố trong những năm đến.

 
 

Đồng chí Huỳnh Đức Thơ, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố (đứng thứ 3 từ phải sang) chứng kiến Lễ ký kết biên bản thỏa thuận khảo sát thu thập số liệu nghiên cứu dự án phát triển cảng Liên Chiểu tại Đà Nẵng.

Dịch vụ thương mại dần định hình được vị trí, vai trò là trung tâm mua sắm, phân phối, trung chuyển hàng hóa và dịch vụ khu vực miền Trung. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ giai đoạn 2016-2020 tăng bình quân 5,76%/năm, trong đó doanh thu bán lẻ hàng hóa tăng bình quân 6,83%/năm. Hạ tầng thương mại đáp ứng yêu cầu phát triển, hệ thống các chợ, siêu thị và trung tâm thương mại được đầu tư cả về số lượng, quy mô theo hướng văn minh, hiện đại. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa giai đoạn 2016-2020 tăng bình quân 2,95%/năm. Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu nhóm ngành hàng Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp - Thủy sản - Nông lâm năm 2019 ước đạt trên 85%-11,5%-0,8%[5]. Đến giữa đầu 2020, hàng hóa của doanh nghiệp Đà Nẵng đã xuất khẩu đến 120 quốc gia, vùng lãnh thổ.

Các loại hình vận tải và mạng lưới vận tải với nhiều phương thức, đáp ứng nhu cầu giao thương và đi lại của nhân dân. Giai đoạn 2016-2020, khối lượng luân chuyển hàng hóa tăng 5,07%/năm, khối lượng luân chuyển hành khách giảm 2,85%/năm và doanh thu dịch vụ vận tải, kho bãi tăng 3,27%/năm. Thành phố đã đưa vào vận hành 11 tuyến buýt trợ giá và tuyến buýt liền kề Đà Nẵng - Huế; phê duyệt Quy hoạch phát triển cơ sở hạ tầng logistics đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; làm việc với các bộ, ngành Trung ương xúc tiến đầu tư các dự án đầu tư xây dựng cảng Liên Chiểu, Hàng lang kinh tế Đông Tây 2 (Quốc lộ 14D), Quốc lộ 14G, Di dời ga đường sắt; phối hợp đẩy nhanh tiến độ triển khai hoàn thành các dự án Đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi, Đường Hồ Chí Minh (đoạn La Sơn - Túy Loan) góp phần hỗ trợ, đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hóa của thành phố và các tỉnh khu vực miền Trung - Tây Nguyên.

Dịch vụ bưu chính - viễn thông, công nghệ thông tin phát triển mạnh, doanh thu ngành công nghệ thông tin giai đoạn 2016-2020 tăng bình quân 7,11%/năm, kim ngạch xuất khẩu phần mềm tăng bình quân trên 15%/năm. Hệ thống thông tin chính quyền điện tử, Cổng dịch vụ công trực tuyến thành phố, Cổng Dịch vụ dữ liệu được xây dựng và sử dụng hiệu quả. Hạ tầng công nghệ thông tin - truyền thông được đầu tư đồng bộ, hiện đại.

Dịch vụ tài chính - ngân hàng phát triển đa dạng về loại hình hoạt động và mạng lưới các tổ chức tín dụng; hệ thống thanh toán ngày càng hiện đại, đa dạng. Giai đoạn 2016-2020, huy động vốn tăng trưởng mạnh, tăng 11,31%/năm, cho vay tăng 20,06%/năm.

Các dịch vụ khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, y tế tiếp tục phát triển mạnh với sự tham gia của nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước, từng bước mở rộng phạm vi, quy mô hoạt động và đa dạng hoá sản phẩm, dịch vụ, đóng góp ngày càng tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội.

Sản xuất công nghiệp duy trì tăng trưởng ổn định, giá trị gia tăng ngành công nghiệp giai đoạn 2016-2019 tăng bình quân khoảng 6%/năm. Bên cạnh 6 khu công nghiệp hiện nay, diện tích 1.066,5 ha[6]; thành phố đã đầu tư hoàn thành cơ bản hạ tầng giai đoạn 1 và đạt 65% giai đoạn 2 Khu công nghệ cao thành phố; khánh thành Khu công nghệ thông tin giai đoạn 1, phê duyệt chủ trương đầu tư giai đoạn 2 và Khu công viên phần mềm số 2; thành lập 3 khu công nghiệp mới[7] và một số cụm công nghiệp[8], góp phần giải quyết nhu cầu mặt bằng sản xuất và thu hút đầu tư, nhất là lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ thông tin và phát triển kinh tế số.

Đà Nẵng là địa phương duy nhất có 02 khu Công nghệ thông tin tập trung được công nhận[9]; từng bước giữ vai trò là đầu tàu của khu vực miền Trung về phát triển công nghiệp công nghệ thông tin, thu hút được một lực lượng đáng kể nguồn nhân lực chất lượng cao cho thành phố, thu hút trên 25.500 lao động, trong đó khoảng 10.500 lao động làm việc trong lĩnh vực phần mềm và nội dung số.

 
 

Sản xuất công nghiệp đóng góp tích cực cho tăng trưởng kinh tế thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn 2015-2020 .

Kinh tế biển và cảng biển có bước phát triển, hạ tầng kỹ thuật phục vụ kinh tế biển được đầu tư xây dựng và khai thác hiệu quả. Thành phố đã hoàn thành dự án mở rộng Cảng Tiên Sa giai đoạn 2, góp phần phát triển đồng bộ hệ thống logistics phục vụ cảng biển, nâng năng lực bốc dỡ của Cảng Đà Nẵng lên 10-12 triệu tấn/năm vào năm 2020, tích cực kêu gọi đầu tư một số trung tâm logistics trên địa bàn thành phố[10]. Sản lượng hàng hóa qua cảng giai đoạn 2015-2020 ước đạt trên 40 triệu tấn, tăng bình quân 9,3%/năm (không tính năm 2020). Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án Đầu tư xây dựng Cảng Liên Chiểu đã được trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Số tàu thuyền công suất 90CV trở lên tăng từ 461 chiếc năm 2015 lên 690 chiếc năm 2019, tăng bình quân 57 chiếc/năm, sản lượng khai thác tăng bình quân 2,3%/năm.

Nông nghiệp chuyển dịch theo hướng tái cơ cấu lại sản xuất, phát triển sản phẩm chủ lực, đặc trưng, phục vụ du lịch và đô thị. Thành phố đã ban hành, thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất theo hướng chuyên canh, tập trung, đẩy mạnh cơ giới hóa, ứng dụng công nghệ cao, sản xuất hữu cơ, với 06 vùng quy hoạch tổ chức lại chăn nuôi đảm bảo vệ sinh môi trường gắn với phòng chống dịch bệnh theo chuỗi thực phẩm an toàn. Chương trình xây dựng nông thôn mới được triển khai tích cực, tạo chuyển biến trong phát triển kinh tế nông thôn, đến năm 2020, có 11/11 xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới giai đoạn 2015-2020, có 12 thôn được công nhận thôn kiểu mẫu, cơ sở hạ tầng được đầu tư đồng bộ theo hướng đô thị và sinh thái. Thực hiện tốt Chương trình phát triển lâm nghiệp bền vững giai đoạn 2015-2020, đã giao 1.028,23 ha rừng cho đồng bào dân tộc và hỗ trợ trồng rừng kinh tế, trồng rừng cây gỗ lớn, rừng đặc dụng, phòng hộ. Năm 2020, tỷ lệ che phủ rừng đạt 47%, cao hơn bình quân cả nước là 42%. Giá trị tăng thêm lĩnh vực nông nghiệp ước tăng 3,3%/năm.

Công tác quản lý điều hành thu, chi ngân sách được thực hiện chặt chẽ, đúng quy định. Tốc độ tăng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn giai đoạn 2016-2020 bình quân đạt 4,94%/năm. Hầu hết nguồn tăng thu, tiết kiệm chi hằng năm được ưu tiên bổ sung vốn đầu tư phát triển, bảo đảm bố trí dự toán chi đầu tư phát triển đạt từ 40% trở lên so với tổng chi cân đối ngân sách địa phương. Tăng chi ngân sách địa phương bình quân 11,52%/năm. Thành phố tiếp tục chỉ đạo tăng cường kỷ luật tài chính - ngân sách, thực hiện đầy đủ các kiến nghị của cơ quan thanh tra, kiểm toán nhà nước; tiếp tục triển khai thực hiện cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp gắn với lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công. Thực hiện công khai ngân sách nhà nước theo đúng quy định. Công tác thanh tra, kiểm tra được tăng cường ngăn ngừa thất thoát, lãng phí trong chi tiêu ngân sách.

Đẩy mạnh thu hút đầu tư và công tác hỗ trợ, đồng hành cùng nhà đầu tư, doanh nghiệp

Thành phố tập trung triển khai nhiều biện pháp cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, thu hút các nguồn vốn trong và ngoài nước, nhất là vốn FDI cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội gắn với khuyến khích phong trào khởi nghiệp. Thành phố đã ban hành và triển khai Đề án “Phát triển doanh nghiệp Đà Nẵng đến năm 2020”, Đề án phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; xây dựng vườn ươm doanh nghiệp theo mô hình hợp tác công - tư; đồng thời định kỳ tổ chức các cuộc họp, đối thoại để hỗ trợ tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp, thúc đẩy triển khai dự án, ổn định và phát triển sản xuất, kinh doanh. Sau 05 năm triển khai thi hành Luật doanh nghiệp 2014 và Luật Đầu tư 2014, với tinh thần cải cách mạnh mẽ, trao quyền tự chủ nhiều hơn cho nhà đầu tư, doanh nghiệp đã thực sự khích lệ tinh thần khởi nghiệp, tạo làn sóng thành lập doanh nghiệp trên địa bàn thành phố.

 

Cảnh tổng quan Nhà máy bia Heineken Viet Nam - Đà Nẵng. Đây là doanh nghiệp đóng góp lớn nhất cho ngân sách thành phố trong nhiều năm liên tiếp (các năm 2018 và 2019, đóng góp hơn 2.500 tỷ đồng/năm). 

Công tác cải cách hành chính được nâng cao, hiệu quả theo hướng công khai, minh bạch, tạo lập môi trường đầu tư thông thoáng để thu hút mạnh mọi nguồn lực đầu tư vào những ngành, lĩnh vực phù hợp với quy hoạch như: ban hành các cơ chế, chính sách, cải cách thủ tục hành chính, hẹn giờ giao dịch hành chính, đăng ký dịch vụ công trực tuyến, triển khai “cơ chế” và “một cửa liên thông” tại các sở, ban, ngành, ủy ban nhân dân các quận, huyện, phường, xã; triển khai dịch vụ trả kết quả hồ sơ tận nhà cho công dân, tổ chức, doanh nghiệp[11]; phê duyệt Đề án “Quản lý liên thông về thủ tục đầu tư đối với các dự án thực hiện ngoài các Khu công nghiệp, Khu công nghệ cao và Khu công nghệ thông tin tập trung trên địa bàn thành phố Đà Nẵng”; định kỳ tiếp xúc giữa chính quyền với các nhà đầu tư, doanh nghiệp để kịp thời nắm bắt, hỗ trợ và giải quyết các khó khăn, vướng mắc cho các nhà đầu tư, đẩy mạnh thu hút đầu tư... Năm 2018, thành phố đã ban hành và chính thức thực hiện Đề án xây dựng thành phố thông minh tại thành phố Đà Nẵng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; đã xác định xây dựng thành phố thông minh là một trong những động lực phát triển mới, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao hiệu quả quản lý đô thị dựa trên dữ liệu và công nghệ số, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.

 

Cảng Tiên Sa ngày mới.

Để tăng cường thu hút đầu tư, khuyến khích, hỗ trợ phát triển một số doanh nghiệp có quy mô lớn, có sản phẩm chủ lực, thành phố đã chuẩn bị các điều kiện về hạ tầng, kỹ thuật và một số quỹ đất sạch để kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư. Đồng thời, chú trọng ban hành nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ đầu tư, như: chính sách đổi mới khoa học công nghệ, hỗ trợ phát triển công nghiệp phần mềm, công nghiệp hỗ trợ... Đặc biệt, giai đoạn 2015-2020 đánh dấu việc phát triển mạnh mẽ của cộng đồng khởi nghiệp Việt Nam, thành phố cũng đã có nhiều hoạt động sôi nổi liên quan tạo sự lan tỏa trong cộng đồng như: ban hành Chương trình “Phát triển khởi nghiệp Đà Nẵng 2016”, thành lập Hội đồng Điều phối mạng lưới khởi nghiệp thành phố Đà Nẵng, phê duyệt Đề án Xây dựng Vườn ươm Doanh nghiệp và thành lập Công ty TNHH Đầu tư và Hỗ trợ khởi nghiệp Đà Nẵng (Vườn ươm Doanh nghiệp thành phố) theo mô hình hợp tác công - tư đầu tiên trong cả nước...

Hoạt động đầu tư của các thành phần kinh tế diễn ra khá sôi động và có bước khởi sắc. Công tác sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước cơ bản hoàn thành. Số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập trong giai đoạn 2016-2020 tăng cao[12], ước khoảng 21.094 doanh nghiệp, chi nhánh và văn phòng đại diện, tổng vốn điều lệ đăng ký đạt 100.659 tỷ đồng. Lũy kế đến nay trên địa bàn thành phố có 30.873 doanh nghiệp và chi nhánh, văn phòng đại diện đang hoạt động với tổng số vốn đăng ký đạt 212.509 tỷ đồng. Khu vực kinh tế ngoài nhà nước ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của thành phố với 52.416,89 tỷ đồng vốn đầu tư trong nước và 1.259,54 triệu USD vốn đầu tư nước ngoài được thu hút trong giai đoạn 2015-2020, cụ thể trong đó: đã thu hút 50 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư là 63.231,9 tỷ đồng; cấp mới Giấy chứng nhận đầu tư cho 508 dự án FDI, tổng vốn đầu tư đăng ký 1.339,78 triệu USD; có 55 dự án tăng vốn, tổng vốn tăng thêm đạt 129,538 triệu USD; có 594 lượt nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, phần vốn góp trong tổ chức kinh tế với tổng vốn 210,201 triệu USD. Đến nay, thành phố có 337 dự án đầu tư trong nước, tổng vốn đầu tư 115.713 tỷ đồng và 853 dự án FDI, tổng vốn đầu tư 3,476 tỷ USD.

Tổng vốn đầu tư phát triển giai đoạn 2016-2020 huy động ước đạt 187,7 nghìn tỷ đồng, tăng 3,74%/năm, năm 2020 ước đạt 37.696 tỷ đồng, gấp 1,11 lần so với năm 2016. Cơ cấu vốn đầu tư phát triển chuyển dịch đúng định hướng[13], năm 2020 ước tỷ trọng vốn đầu tư phát triển chiếm 37,24% so với GRDP thành phố. Hoạt động thu hút nguồn vốn đầu tư hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) đạt kết quả khá. Giai đoạn 2015-2020, thành phố đã xúc tiến, thu hút và quản lý 06 dự án sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi đang được triển khai với tổng vốn đầu tư là 351,423 triệu USD. Ngoài ra, giai đoạn 2015-2020, thành phố cũng đã thu hút được khoảng 284 dự án viện trợ phi chính phủ (NGO) với tổng kinh phí tài trợ khoảng 520,3 tỷ đồng.

Thành phố đã tổ chức thành công các diễn đàn đầu tư Đà Nẵng năm 2017, tọa đàm mùa Xuân năm 2018 và 2019, triển khai tích cực Năm đẩy mạnh thu hút đầu tư, mở ra cơ hội, thuận lợi lớn cho thành phố về tuyên truyền, quảng bá hình ảnh, xúc tiến đầu tư và phát triển du lịch.

Kết quả phát triển các lĩnh vực văn hóa - xã hội

Các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, y tế được đầu tư và đạt nhiều kết quả tích cực. Ngành giáo dục và đào tạo tập trung quy hoạch mạng lưới trường học theo hướng đa dạng hóa, xã hội hóa, có cơ cấu hợp lý giữa các ngành học, cấp học, số lượng phòng học ngày càng tăng. Cơ sở vật chất bậc mầm non và phổ thông cơ bản đáp ứng đủ nhu cầu dạy và học với 114 trường đạt chuẩn quốc gia, chiếm tỷ lệ 28,3%. Công tác khuyến học, khuyến tài; xây dựng xã hội học tập đạt nhiều kết quả tích cực; mạng lưới trường đại học, cao đẳng, dạy nghề bước đầu khẳng định vai trò trung tâm văn hóa, giáo dục - đào tạo của vùng. Quy mô đào tạo giai đoạn 2015-2020 thực hiện vượt kế hoạch khoảng 52,5 ngàn lao động được đào tạo, nâng tỉ lệ lao động qua đào tạo nghề lên 55%; 80% lao động học nghề được giới thiệu và giải quyết việc làm. Từng bước giảm tỷ lệ trường công lập so với trường tư, tạo điều kiện khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp, nhà đầu tư tham gia phát triển cơ sở giáo dục tư thục chất lượng cao. Kiên trì kiến nghị đẩy nhanh tiến độ triển khai xây dựng dự án Khu đô thị Đại học Đà Nẵng.

Chất lượng chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân được nâng lên đáng kể; xây dựng mới, nâng cấp, cải tạo hệ thống các bệnh viện chuyên khoa, đa khoa và trung tâm y tế, trạm y tế; đầu tư phát triển dịch vụ y tế chuyên sâu, từng bước hội nhập với khu vực và quốc tế với các mô hình bệnh viện vệ tinh, thực hiện chuyển giao nhiều kỹ thuật chuyên môn sâu phù hợp với phân tuyến kỹ thuật; giảm tỷ lệ chuyển bệnh nhân đi tuyến trên và ra nước ngoài điều trị; tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế trên địa bàn thành phố đạt 98,2%. Lĩnh vực y tế dự phòng được đầu tư nâng cấp, mở rộng, chủ động triển khai tốt công tác dự báo và thực hiện hiệu quả các giải pháp phòng chống dịch bệnh. Các chương trình mục tiêu y tế quốc gia được triển khai có hiệu quả. Công tác đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm được tăng cường, tạo sự an tâm cho người dân.

Thành phố tiếp tục triển khai Chỉ thị 43-CT/TU ngày 15/12/2014 của Ban Thường vụ Thành ủy về “Năm văn hóa, văn minh đô thị”, tạo sự chuyển biến rõ nét trong ý thức của người dân thành phố, khẳng định bản sắc văn hóa năng động, sáng tạo, thân thiện, nếp sống văn minh đô thị của người Đà Nẵng. Thực hiện Đề án Xây dựng nếp sống văn hóa - văn minh đô thị gắn với Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa mang lại hiệu quả trong việc nâng cao chất lượng các danh hiệu văn hóa. Đời sống văn hóa ở cơ sở, môi trường văn hóa có sự chuyển biến tích cực; các quy tắc ứng xử văn hóa, văn minh ngày càng thâm nhập sâu ý thức mỗi người dân.

Lĩnh vực văn hóa tiếp tục được quan tâm, nhiều di sản văn hóa, các di tích lịch sử được xếp hạng, trùng tu, tôn tạo và phát huy giá trị, góp phần xây dựng nét văn hóa đặc trưng của thành phố. Năm 2016, Công trình Bảo tàng Mỹ thuật được khánh thành. Năm 2017, Thành Điện Hải được công nhận Di tích quốc gia đặc biệt; năm 2018, Danh thắng Ngũ Hành Sơn được xếp hạng di tích cấp quốc gia đặc biệt; năm 2019, nghề làm nước mắm Nam Ô được đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Hệ thống thiết chế văn hóa - thể thao cơ sở được triển khai theo Quy hoạch trên địa bàn từng quận, huyện, phát huy tốt hoạt động, trở thành địa điểm tập trung sinh hoạt văn hóa, tập luyện thể thao, vui chơi của người dân địa phương. Đội ngũ văn nghệ sĩ giàu sức sáng tạo, luôn đồng hành trong việc tuyên truyền, thực hiện chủ trương, chính sách lớn; nêu cao tinh thần trách nhiệm trong xây dựng nếp sống văn hóa - văn minh đô thị.

Các chính sách an sinh, phúc lợi xã hội mang đậm tính nhân văn được duy trì triển khai thực hiện, đặc biệt là những chủ trương lớn nhằm hướng đến các mục tiêu an sinh bền vững như: Chương trình “Thành phố 5 không”, “Thành phố 3 có”, “Thành phố 4 an”; tiếp tục chăm sóc các đối tượng chính sách, người có công[14]. Triển khai thực hiện đầy đủ các chương trình, kế hoạch, dự án bảo vệ, chăm sóc trẻ em, nhiều mô hình chăm sóc, hỗ trợ giúp đỡ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được triển khai thực hiện có hiệu quả. Thành phố đã nâng chuẩn nghèo giai đoạn 2016-2020 cao hơn Trung ương 44,4%-57,1% và bằng nhiều giải pháp đã giải quyết tốt các chính sách xã hội, về đích trước 2 năm (2018); năm 2019 tiếp tục nâng chuẩn mới, thực hiện tiêu chí đa chiều và tăng thêm tiêu chí về việc làm so với Trung ương. Ước đến cuối năm 2020, tỷ lệ hộ nghèo còn sức lao động theo chuẩn mới thành phố theo hướng tiếp cận đa chiều giảm còn 2,04% (tương ứng 6.125 hộ), giảm bình quân 1,13%/năm.

Đề án “Có nhà ở”, Đề án 7.000 căn hộ dành cho người thu nhập thấp được triển khai có hiệu quả, huy động nhiều nguồn lực xây dựng nhà ở chung cư để bố trí cho các hộ chính sách, hộ nghèo chưa có chỗ ở ổn định, các hộ tái định cư, các đối tượng hưởng lương từ ngân sách; khuyến khích đầu tư xây dựng nhà ở cho công nhân tại các khu công nghiệp và ký túc xá sinh viên[15]. Kịp thời hỗ trợ giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền lợi của người lao động. Đề án “có việc làm” được tiếp tục thực hiện và khẳng định là chính sách trụ cột của hệ thống an sinh xã hội. Giai đoạn 2015-2020 thành phố đã hỗ trợ giải quyết việc làm cho 125.913 lao động, đạt bình quân 31.000 lao động/năm.

Định hướng, giải pháp trọng tâm nhằm phục hồi và thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2020-2025

Ngày 24/01/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 43-NQ/TW về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, với nhiều kỳ vọng cho thành phố và yêu cầu phát triển rất cao cho chặng đường tới. Theo đó, mục tiêu đến năm 2030 là xây dựng thành phố Đà Nẵng trở thành một trong những trung tâm kinh tế - xã hội lớn của cả nước và Đông Nam Á với vai trò là trung tâm về khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, du lịch, thương mại, tài chính, logistics, công nghiệp công nghệ cao, công nghệ thông tin, công nghiệp hỗ trợ; là một trong những trung tâm văn hóa - thể thao, giáo dục - đào tạo, y tế chất lượng cao, khoa học - công nghệ phát triển của đất nước; trung tâm tổ chức các sự kiện tầm khu vực và quốc tế; thành phố cảng biển, đô thị biển quốc tế với vị trí là hạt nhân của chuỗi đô thị và cực tăng trưởng của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung - Tây Nguyên; trở thành đô thị sinh thái, hiện đại và thông minh, thành phố đáng sống, có tổ chức Đảng và hệ thống chính trị vững mạnh, chính quyền tiên phong trong đổi mới và phát triển, người dân có mức sống thuộc nhóm địa phương dẫn đầu cả nước với chất lượng cuộc sống tốt, thân thiện, hạnh phúc và sáng tạo; quốc phòng, an ninh và chủ quyền biển, đảo được bảo đảm vững chắc.

Tuy nhiên, thành phố cũng phải đối diện với nhiều thách thức: Năng lực cạnh tranh còn thấp, chất lượng tăng trưởng và nguồn lực đầu tư còn hạn chế, quy mô kinh tế còn nhỏ, không gian phát triển đô thị về chiều rộng có giới hạn, quỹ đất không còn nhiều; thường xuyên chịu ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh, đặc biệt đại dịch COVID-19 đã tác động lớn đến kinh tế - xã hội thành phố và khả năng còn kéo dài trong những năm đầu nhiệm kỳ 2020-2025… Điều này, đòi hỏi Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố phải nỗ lực phấn đấu hơn nữa, quyết liệt hơn, chủ động trong việc xây dựng và triển khai các kịch bản, giải pháp khôi phục, tăng trưởng kinh tế; đồng thời, đảm bảo an sinh xã hội, trật tự an toàn xã hội, “vững vàng đưa thành phố phát triển đi lên nhanh và mạnh hơn, vững chắc hơn”; tiếp tục triển khai hiệu quả các kế hoạch cụ thể hóa các chương trình của Ban Thường vụ Thành ủy triển khai Nghị quyết số 43-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Về kinh tế

 

Biểu đồ 2: Dự báo GRDP (tỷ đồng, giá so sánh 2010) cơ cấu theo khu vực kinh tế giai đoạn 2021 - 2025.

Mục tiêu tốc độ tăng bình quân GRDP (giá so sánh 2010) giai đoạn 2020-2025 đạt khoảng 9-10% thể hiện nỗ lực, kỳ vọng và đầy thách thức đối với thành phố, với yêu cầu phát triển nhanh và bền vững, đòi hỏi kinh tế thành phố phải có những chuyển biến, động lực mang tính đột phá, tốc độ tăng trưởng các khu vực kinh tế phải tăng nhanh, giá trị các khu vực dịch vụ, công nghiệp và xây dựng (giá so sánh 2010) phải tăng lần lượt là 1,51 lần và 1,45 lần tại năm 2025 so với năm 2020. Do vậy, ngay trong năm 2021, tăng trưởng GRPD của thành phố phải ngay lập tức đạt mức trên 8,5% để cơ bản đưa kinh tế thành phố trở lại ngang với mức trước khi xảy ra đại dịch COVID-19, sau đó tiếp tục duy trì và phấn đấu đạt mức tăng trưởng trên 9% và kỳ vọng trên 10% vào năm 2025, chú trọng cân đối tốc độ tăng trưởng và tỷ trọng của hai khu vực dịch vụ và công nghiệp - xây dựng trong nền kinh tế. Trong bối cảnh hiện tại, khu vực dịch vụ (còn khó dự đoán, do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19) vẫn phải phục hồi và tăng trưởng nhưng khó có đột phá, trong khi khu vực công nghiệp phải nhanh chóng phục hồi và tăng trưởng ở mức cao. Nghị quyết số 43-NQ/TW đã xác định định hướng đổi mới mô hình tăng trưởng, thực hiện căn bản việc chuyển đổi các ngành, lĩnh vực có giá trị gia tăng thấp sang những ngành, lĩnh vực có giá trị cao, với 3 trụ cột[16] và 5 lĩnh vực mũi nhọn[17]; cùng sự quyết tâm, nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố, kinh tế Đà Nẵng có đủ cở sở để hoàn thành các mục tiêu quan trọng này, trong đó có một số điểm nhấn quan trọng sau:

Đối với khu vực công nghiệp: Công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp công nghệ cao và công nghệ thông tin được định hướng là một trong 3 trụ cột của nền kinh tế. Trong đó, cụm ngành công nghiệp công nghệ cao, dịch vụ công nghệ thông tin và kỹ thuật số được kỳ vọng tăng trưởng nhanh và chiếm khoảng 10-15% GRDP của thành phố.

Theo đó, Đà Nẵng đã được đề xuất trong quy hoạch đến năm 2030, Cụm Công nghệ cao gồm Khu công nghệ cao Đà Nẵng và Khu công nghệ cao mở rộng (với các phân khu chức năng, phục vu công nghiệp hỗ trợ công nghệ cao); Khu công nghệ thông tin tập trung số 1, số 2, Khu Công viên phần mềm số 1, số 2, số 3; ngoài ra, hình thành Cụm Đổi mới sáng tạo tại phía Nam Thành phố gắn liền với Khu đô thị đại học Đà Nẵng, Trung tâm Đổi mới sáng tạo và Công viên phần mềm (diện tích khoảng 1.710 ha); và tiếp tục hình thành mới các cụm công nghiệp: Cẩm Lệ, Hòa Nhơn, Hòa Khánh Nam, Hòa Hiệp Bắc (khoảng 83 ha). Đồng thời, hiện tại Thành ủy đang triển khai xây dựng, ban hành Nghị quyết phát triển công nghiệp hỗ trợ thành trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đến năm 2030. Đây chính là cơ sở vững chắc về hạ tầng kỹ thuật để thành phố phát triển mạnh các ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp công nghệ thông tin ngay trong nhiệm kỳ này.

Ngay trong những năm 2021-2022, thành phố sẽ hình thành và đưa vào hoạt động hàng loạt các dự án mới như: Tổ hợp Không gian Sáng tạo CMC (Dự kiến tổng mức đầu tư là 12.000 tỷ đồng, tạo việc làm cho khoảng 2.000 lao động vào giai đoạn 1 và 10.000 lao động ở giai đoạn 2); Dự án Khu công viên phần mềm số 2 (giai đoạn 1) Đà Nẵng dự kiến sẽ được khởi công vào tháng 10/2020. Cùng với đó, Đà Nẵng cũng đang đẩy nhanh việc phát triển các công viên phần mềm, các khu công nghệ thông tin của VNPT, FPT, Viettel… tạo thành chuỗi công viên phần mềm có quy mô khu vực và quốc tế là điều kiện thuận lợi thu hút các nhà đầu tư.

Đối với khu vực dịch vụ: với 02 lĩnh vực mũi nhọn là Du lịch và dịch vụ chất lượng cao gắn với bất động sản nghỉ dưỡng; Cảng biển, hàng không gắn với dịch vụ logistics. Trong đó, phấn đấu cụm ngành du lịch chiếm khoảng 20%, cụm ngành logistics chiếm khoảng 15% GRDP của thành phố, sẽ góp phần phục hồi vị thế của khu vực dịch vụ sau đại dịch COVID-19, duy trì tốc độ tăng trưởng trên 8,5%.

Nhằm hình thành chuỗi cung ứng dịch vụ logistics tại khu vực miền Trung, trong nhiệm kỳ này, Đà Nẵng sẽ đầu tư cải tạo, nâng cấp cảng Tiên Sa; Bến trung chuyển container Liên Chiểu qua vịnh Đà Nẵng; đầu tư xây dựng ga hàng hóa - cảng hàng không quốc tế Đà Nẵng (khoảng 300 tỷ đồng) với công suất khai thác từ 80.000-100.000 tấn/năm; hình thành hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, liên thông, kết nối thuận lợi, trục giao thông chính của thành phố đến cảng biển (cải thiện sự kết nối với cảng Tiên Sa với trục Yết Kiêu - Ngô Quyền - Ngũ Hành Sơn - Lê Văn Hiến - Trần Đại Nghĩa thông thoáng hơn) và cảng hàng không quốc tế Đà Nẵng.

Trong ngành du lịch, Đà Nẵng tiếp tục xây dựng thành phố thành điểm đến du lịch, dịch vụ hàng đầu, tầm khu vực; định hướng tăng số lượng khách quốc tế thuộc phân khúc chất lượng cao, có khả năng chi trả cao, hoàn toàn có thể phục hồi và duy trì tốc độ phát triển như trước khi xảy ra đại dịch COVID-19. Ngay sau khi đại dịch COVID-19 được kiểm soát thành phố sẽ triển khai Kế hoạch khôi phục hoạt động du lịch (đa dạng hóa thị trường, cơ cấu lại nguồn khách và sẵn sàng các điều kiện khai thác các thị trường quốc tế trọng điểm, gắn với các giải pháp kích cầu, thu hút khách du lịch trong nước). Chú trọng, tăng cường khai thác và mở rộng các thị trường quốc tế gồm Nga, Ấn Độ, Úc, Bắc Mỹ, Tây Âu, Bắc Âu, Trung Đông…; tiếp tục khai thác thị trường Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản, Hồng Kông, Đài Loan, Đông Nam Á. Tập trung khai thác, phát huy hiệu quả cơ sở hạ tầng, những hoạt động, sản phẩm dịch vụ, du lịch sẵn có; đồng thời trong giai đoạn đầu nhiệm kỳ sẽ tập trung đầu tư hoàn thiện hạ tầng dịch vụ, các cơ sở, sản phẩm du lịch mới... để tạo điều kiện đón đầu, đưa vào khai thác, phục vụ kịp thời hoạt động du lịch khi tình hình dịch bệnh được kiểm soát.

Để phát huy thế mạnh của ngành dịch vụ, thành phố cũng sẽ sớm ban hành các cơ chế chính sách khuyến khích phát triển kinh tế ban đêm, đầu tư hoàn thiện và khai thác dịch vụ phục vụ kinh tế ban đêm như: Phố du lịch An Thượng, Tuyến phố đi bộ Bạch Đằng - cầu Nguyễn Văn Trỗi - Trần Hưng Đạo, Tuyến đường ven biển Hoàng Sa - Võ Nguyên Giáp - Trường Sa, Tuyến đường ven biển Nguyễn Tất Thành, quảng trường Trung tâm.

 
 

Hệ thống siêu thị trên địa bàn thành phố ngày càng mở rộng.

Thành phố cũng sẽ sớm đề xuất và triển khai các đề án trở đưa Đà Nẵng trở thành trung tâm khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia, trung tâm tài chính khu vực miền Trung - Tây Nguyên, hình thành khu phi thuế quan...; đẩy mạnh giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công, góp phần thúc đẩy xây dựng và hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Chú trọng thực hiện mục tiêu tái cơ cấu đầu tư công, làm cơ sở để thu hút các nguồn lực đầu tư ngoài ngân sách, sử dụng nguồn vốn ngân sách vào các dự án có khả năng kích thích các nguồn tài chính khác như: lập quy hoạch, xây dựng kết cấu hạ tầng diện rộng bảo vệ môi trường và các công trình không có khả năng thu hồi vốn.

Về văn hóa - xã hội

Thực hiện mục tiêu phát triển văn hóa - xã hội đồng bộ với phát triển kinh tế, làm nền tảng cho thành phố phát triển bền vững, hướng đến xây dựng “thành phố đáng sống”. Ưu tiên nguồn lực phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, thực sự là động lực chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội. Kiện toàn, nâng cao chất lượng hệ thống y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân trên địa bàn và chủ động kiểm soát, ứng phó kịp thời với các dịch bệnh. Xây dựng môi trường văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao lành mạnh; nếp sống văn hóa, văn minh đô thị giàu tính nhân văn, sáng tạo, thông minh, bền vững. Nâng cao hiệu quả các chính sách xã hội trên địa bàn như Chương trình thành phố 5 không, 3 có, 4 an. Trong đó, thành phố sẽ triển khai một số giải pháp căn bản như:

Tiếp tục thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Tiếp tục phát huy truyền thống khuyến học, khuyến tài. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong công tác đào tạo giáo dục đại học; kiến nghị xem xét, thành lập Đại học quốc gia Đà Nẵng, đồng thời phối hợp tiến hành xây dựng dự án Khu đô thị Đại học Đà Nẵng. Ưu tiên nguồn nhân lực chất lượng cao trở thành động lực chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội: Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực khoa học và công nghệ; phát triển nguồn nhân lực khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; phát triển đội ngũ cán bộ y tế đảm bảo số lượng và chất lượng; khuyến khích, phát huy năng lực, tiềm năng sáng tạo của văn nghệ sĩ.

Kiện toàn, nâng cao chất lượng hệ thống y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân trên địa bàn thành phố và chủ động kiểm soát, ứng phó kịp thời với các dịch bệnh. Nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, khắc phục căn bản tình trạng quá tải bệnh viện. Tiếp tục củng cố, kiện toàn mạng lưới y tế; đầu tư mở rộng Bệnh viện Phụ sản - Nhi, Bệnh viện đa khoa Đà Nẵng cơ sở 2. Đẩy mạnh thực thi và nâng cao hiệu quả các chính sách xã hội về y tế trong toàn thành phố.

Xây dựng môi trường văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao lành mạnh; thường xuyên quán triệt thực hiện nhiệm vụ xây dựng và phát triển toàn diện con người Đà Nẵng về tư tưởng, đạo đức, về lối sống văn hóa, văn minh đô thị; phát huy những giá trị tinh thần truyền thống của Đà Nẵng gắn với những chuẩn giá trị mới trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0. Tiếp tục duy trì thực hiện các nội dung chủ trương Năm văn hóa, văn minh đô thị, hình thành thói quen ứng xử, thực hiện tốt các chuẩn mực văn hóa, văn minh đô thị. Đẩy mạnh đầu tư phát triển văn hóa, văn học nghệ thuật, giữ gìn và phát huy các loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống. Đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể thao; tham gia sáng tạo, phổ biến và kinh doanh trên lĩnh vực văn hóa, văn học, nghệ thuật. Tiếp tục tổ chức các sự kiện mang tầm quốc tế và khu vực.

Nâng cao hiệu quả các chính sách xã hội trên địa bàn, đặc biệt là thực hiện Chương trình thành phố “5 không”, “3 có”, “4 an”[18]. Tiếp tục thực hiện tốt các phong trào đền ơn đáp nghĩa, chế độ, chính sách đối với người có công cách mạng. Hoàn thiện hệ thống các chính sách giúp người nghèo tiếp cận với các dịch vụ xã hội, phát triển hệ thống dịch vụ trợ giúp xã hội; huy động nguồn lực đầu tư xây dựng nhà ở xã hội. Đẩy mạnh công tác phòng, chống tệ nạn xã hội. Nâng cao năng lực quản lý nhà nước về bình đẳng giới, bảo vệ, chăm sóc trẻ em và phòng chống bạo lực gia đình, hướng tới thành phố an toàn, thân thiện với phụ nữ và trẻ em.

Bên cạnh đó, Đà Nẵng cần tiếp tục tập trung triển khai mạnh mẽ và có hiệu quả 10 Kế hoạch triển khai các chương trình của Ban Thường vụ Thành ủy về thực hiện Nghị quyết số 43-NQ/TW của Bộ Chính trị; Chỉ thị số 40-CT/TU của Ban Thường vụ Thành ủy, quyết tâm thực hiện “mục tiêu kép”, vừa chủ động, quyết liệt phòng, chống dịch, không để dịch bệnh lây lan, có biện pháp thích ứng, “chung sống” an toàn với dịch; đồng thời phải duy trì và phát triển các hoạt động kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội với chỉ đạo 07 nhóm nhiệm vụ, giải pháp.

Những khó khăn, thách thức, cơ hội, thuận lợi đan xen nhau sẽ là tiền đề, là nền tảng để thúc đẩy kinh tế - xã hội thành phố tiếp tục, với những giải pháp đồng bộ và quyết liệt, phát huy những bài học kinh nghiệm, thành tựu đã đạt được, chủ động hơn trong công tác chỉ đạo, điều hành của Đảng bộ, chính quyền và sự nỗ lực, đồng thuận cộng đồng doanh nghiệp và  người dân thành phố Đà Nẵng, chúng ta có thể tin tưởng kinh tế - xã hội thành phố Đà Nẵng sẽ nhanh chóng phục hồi và thúc đẩy phát triển, hướng tới thực hiện thành công các mục tiêu theo Đại hội đại biểu lần thứ XXII Đảng bộ thành phố Đà Nẵng và định hướng phát triển kinh tế - xã hội theo Nghị quyết 43-NQ/TW của Bộ Chính trị.

H.K.M

 

[1] (1) Phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhất là du lịch, thương mại; tập trung thu hút đầu tư vào công nghiệp công nghệ cao, công nghệ thông tin; đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ và có trọng điểm. (2) Xây dựng và phát triển văn hóa, văn minh đô thị, xây dựng thành phố môi trường. (3) Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

[2] Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP, giá so sánh 2010) giai đoạn 2016-2020 tăng bình quân khoảng 4,0%/năm, với năm 2020 quy mô GRDP (giá hiện hành) ước đạt 101.233 tỷ đồng, gấp 1,26 lần so với năm 2016; GRDP bình quân đầu người (giá hiện hành) ước đạt 87,4 triệu đồng (tương đương 3.693 USD), gấp khoảng 1,17 lần năm 2016. Cơ cấu kinh tế theo khu vực ổn định theo đúng định hướng với khu vực dịch vụ 65,35%; khu vực công nghiệp - xây dựng 22,11%; nông nghiệp 1,98%; thuế sản phẩm (trừ trợ cấp sản phẩm) 10,56%. Năm 2015, cơ cấu kinh tế theo ngành lần lượt là 63,4% - 23,4% - 2,2% - 11%.

[3] Năm 2015, trong tổng GRDP thành phố (giá hiện hành), kinh tế nhà nước chiếm tỷ trọng 25,3%, kinh tế ngoài nhà nước chiếm 54,8%, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 8,9% và thuế sản phẩm (trừ trợ cấp sản phẩm) chiếm 11%. Đến năm 2020, tỷ lệ kinh tế nhà nước, kinh tế ngoài nhà nước (bao gồm kinh tế tập thể, hợp tác xã kiểu mới), kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và thuế sản phẩm (trừ trợ cấp sản phẩm) lần lượt là: 23,82% - 55,85%-9,91% - 10,43%.

[4] Riêng năm 2020, do ảnh hưởng của dịch COVID-19, số lượt khách cơ sở lưu trú phục vụ ước giảm 62,55%; doanh thu dịch vụ lưu trú và lữ hành giảm 51,76%.

[5] Cơ cấu tương ứng năm 2015 là 83,6% - 15,6% - 0,8%.

[6] Số lượng các dự án đầu tư mới tăng, đến 31/12/2019, các Khu công nghiệp đã thu hút được 492 dự án, trong đó: 369 dự án trong nước, tổng vốn đầu tư 17.297 tỷ đồng và 123 dự án FDI, tổng vốn đầu tư 1,453 tỷ USD, tỷ lệ lấp đầy khá cao so với các địa phương khác (86,5%), giải quyết việc làm cho hơn 79.000 lao động của thành phố và các địa phương (chiếm 39% lao động thành phố). Tuy nhiên, hầu hết các dự án quy mô vừa và nhỏ, hàm lượng công nghệ thấp, hoạt động chuyển giao công nghệ diễn ra chậm.

[7] Khu công nghiệp Hòa Cầm giai đoạn 2 (125,01 ha), Hòa Nhơn (360,1 ha) và Hòa Ninh (400,02 ha).

[8] Cụm công nghiệp Cẩm Lệ (29,09 ha), Hòa Nhơn (24,75 ha), Hòa Hiệp Bắc (14,48 ha), Hòa Khánh Nam (11,8 ha).

[9] Khu công nghệ thông tin Tập trung Công viên phần mềm Đà Nẵng và Khu công nghệ thông tin Tập trung Đà Nẵng - giai đoạn 1.

[10] Trung tâm dịch vụ logistics Hòa Vang (20 ha); Ga hàng hóa phục vụ logistics tại phía Bắc Cảng Hàng không quốc tế Đà Nẵng (2 ha); Trung tâm Thương mại và dịch vụ logisitcs Khu Công nghệ cao Đà Nẵng (9,1 ha).

[11] Đến nay đã có 63.305 hồ sơ thủ tục hành chính được trả kết quả qua dịch vụ chuyển phát nhanh của Bưu điện Đà Nẵng.

[12] Số liệu cập nhật từ 1-1-2016 đến 15/5/2020.

[13] Năm 2020, ước vốn đầu tư phát triển khu vực nhà nước chiếm 20,7%, khu vực ngoài nhà nước (dân cư, tư nhân) chiếm 64,3% và khu vực đầu tư nước ngoài chiếm 15%.

[14] Giải quyết chế độ, chính sách cho hơn 13.000 lượt đối tượng; hỗ trợ người có công với cách mạng sửa chữa, xây mới trên 8.000 nhà ở, với kinh phí trên 250 tỷ đồng; 100% mộ, nghĩa trang liệt sĩ trên địa bàn thành phố đã được đầu tư nâng cấp khang trang; ban hành nhiều chính sách đặc thù và nâng mức hỗ trợ cho hơn 33.000 đối tượng bảo trợ xã hội

[15] Đến năm 2020, hoàn thành và đưa vào sử dụng 208 khối nhà với 12.740 căn hộ. Chương trình xây dựng ký túc xá sinh viên đã hoàn thành và đưa vào sử dụng Khu ký túc xá tập trung phía Đông và phía Tây (phường Hòa Khánh Nam) với 1.146 phòng, đáp ứng nhu cầu cho khoảng 6.876 sinh viên.

[16] (1) các ngành dịch vụ tạo ra giá trị gia tăng lớn, đặc biệt là dịch vụ du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có thương hiệu quốc tế. (2) công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp công nghệ cao và công nghệ thông tin, gắn với xây dựng nền kinh tế số trong xu thế cách mạng công nghiệp 4.0. (3) kinh tế biển gắn với bảo vệ an ninh, chủ quyền biển đảo, phát triển nông nghiệp phục vụ đô thị và du lịch gắn với cung ứng sản phẩm nông lâm thủy sản an toàn.

[17] (1) Du lịch và dịch vụ chất lượng cao gắn với bất động sản nghỉ dưỡng. (2) Cảng biển, hàng không gắn với dịch vụ logistics. (3) Công nghiệp công nghệ cao gắn với xây dựng đô thị sáng tạo, khởi nghiệp. (4) Công nghiệp công nghệ thông tin, điện tử, viễn thông gắn với nền kinh tế số. (5) Sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao và ngư nghiệp.

[18] Chương trình “5 không” và “4 an” có sự điều chỉnh như sau: Các chương trình này Chương trình “5 không” gồm: Không có người lang thang xin ăn; không có học sinh bị bạo hành, xâm hại trong nhà trường; học sinh bỏ học, bị đuối nước; không có hộ đặc biệt nghèo; không có giết người để cướp của, băng nhóm tội phạm bảo kê, tín dụng đen và đòi nợ thuê; không có người nghiện ma túy không được kiểm soát trong cộng đồng. Chương trình “4 an” gồm: An ninh trật tự, An toàn giao thông, An toàn thực phẩm; An sinh xã hội và đảm bảo không xảy ra điểm nóng về môi trường.