Chơi thơ-thú vui tài tử
Bé Bê Lim (Hoàng Dạ Thi), con gái út của hai thi sĩ Hoàng Phủ Ngọc Tường và Lâm Thị Mỹ Dạ, làm thơ từ lúc chưa biết chữ. Sau mấy chùm thơ của em được in trên báo, các nhà báo, nhà thơ liên tục đến nhà hỏi chuyện để viết bài khen. Em sợ quá, làu bàu với mẹ: "Con làm thơ để chơi, có chi mà cứ phỏng vấn!". Đúng là có thứ thơ để chơi thật. Các nhà thơ Việt Nam sau này đa số nghiêm túc, làm thơ để giáo dục, nên ít chơi thơ. Nhưng cũng có không ít người chơi thơ rất thâm hậu.
Chơi thơ rất phổ biến ở Trung Quốc và Việt Nam từ xưa đến nay. "Chơi thơ (trong sáng tác) là trò chơi trí tuệ và là thú vui tao nhã lúc trà dư tửu hậu. Muốn chơi thơ, người chơi phải rành luật thơ, lại phải thâm thúy, nhạy cảm mới ứng đối được. Chơi chữ, chơi thơ có lẽ là thú chơi tao nhã và thú vị nhất. Chơi thơ là chơi chữ với lối hồi văn liên hoàn, họa vần, họa chữ, nói lái, độc vận, điệp từ, hay chơi cấu trúc thơ. Sách "Chơi chữ Hán Nôm" (NXB Thuận Hóa, 2002) của Hải Trung giới thiệu hàng chục cách chơi cấu trúc thơ của Trung Quốc, Việt Nam xưa như dạng "thuận nghịch độc", hay "Thuận Hán, nghịch Nôm", cấu trúc vòng tròn, xoắn ốc, hình Hà Đồ, thơ hình núi...
Ví dụ bài thơ "Vũ Trung Sơn Thủy" của vua Thiệu Trị chỉ 56 chữ Hán, mà có thể đọc đến 64 bài thất ngôn bát cú, 64 bài thất ngôn tứ tuyệt. Nhưng chơi thơ như vua Thiệu Trị là cực khó, phải thâm thúy chữ Hán và rất sành thơ mới làm được. Đa số các cụ đồ hay chữ thường chơi thơ thuận nghịch độc. Hàn Mặc Tử từ nhỏ đã có bài thơ "Cửa sổ đêm khuya", có thể đọc ngược xuôi theo 6 cách: Hoa cười nguyệt rọi cửa lồng gương/ Lạ cảnh buồn thêm nỗi vấn vương/ Tha thiết liễu in hồ gợn sóng/ Hững hờ mai thoảng gió đưa hương/ Xa người nhớ cảnh tình lai láng/ Vắng bạn thơ ngâm rượu bẽ bàng/ Qua lại yến ngàn dâu ủ lá/ Hòa đàn sẵn có dế bên tường". Đọc ngược:"Tường bên dế có sẵn đàn hòa/ Lá ủ dâu ngàn yến lại qua... Bỏ hai chữ đầu mỗi câu sẽ có bài thơ ngũ ngôn, rồi lại đọc xuôi, đọc ngược (Nguyệt rọi cửa lòng gương/ Buồn thêm nỗi vấn vương...). Rồi bỏ hai chữ cuối mỗi câu lại có bài thơ mới, đọc xuôi đọc ngược...
Có lần nhà văn Trần Dần kể với tôi về người bạn thơ ở Hà Nội, ông gọi là "thi sĩ Chúc Bờ sông" vì ông ấy ở bên bờ Sông Hồng. Thi sĩ Chúc có nhiều bài thơ cực ngắn, viết xong rồi cất vào hòm, bạn bè tới vui chén rượu thì lấy ra "ngắm". Ví dụ có bài có cái nhan đề là "Vợ chồng". Còn cả bài thơ chỉ có một chữ: Xong! Trần Dần bình: "Vợ chồng - Cái mớ bòng bong ấy gọi là xong!". Nhưng Phùng Quán lại chê là lời bình quá dài dòng! Đó là một cách chơi thơ rất tài tử. Thơ Bút Tre cũng là một thứ thơ chơi thâm hậu. Với cách ngắt vần lục bát trái khoáy, nhà thơ đã biến mọi thứ nghiêm túc thành trò cười: "Con ruồi là giống hiểm nguy/ Một chân của nó rất vi trùng nhiều"... Nhưng ông đã làm nên một trường phái thơ mới nổi tiếng ở Việt Nam: Trường Phái Bút Tre! Thơ Bút Tre Hoan hô Đại tướng Võ Nguyên/ Giáp ta thắng trận Điện Biên trở về là cách chơi vắt dòng lục bát tài hoa, tạo ra nhịp điệu mới trong lục bát Việt Nam. Sau này trường phái Bút Tre trẻ phát triển liên tục: Núi Voi trông thật giống con voi/ Có cả đầu đuôi có cả vòi / Núi cũng như người hăng sản xuất/ Đầu thì trồng sắn đít trồng khoai...
Đa số thơ chơi là thơ xướng họa. Nhà thơ Lý Hoài Xuân kể, hồi chung tỉnh Bình Trị Thiên, một hôm trong một cuộc họp có cả vợ chồng Hoàng Phủ Ngọc Tường, Lâm Thị Mỹ Dạ cùng dự, nhà thơ Văn Lợi liền ứng tác viết vào mảnh giấy bài thơ bốn câu, rồi chuyền cho Mỹ Dạ: "Lâm vào cảnh sắc ngàn xưa/ Thị vàng rơi xuống ngẩn ngơ lòng người/ Mỹ nhân sắc nước hương trời/ Dạ nào chẳng muốn trao lời tri âm". Bốn câu thơ những chữ đầu mỗi câu kết thành tên Lâm Thị Mỹ Dạ. Mỹ Dạ chưa kịp đọc xong, Hoàng Phủ Ngọc Tường ngồi cạnh, liếc đọc rồi làm ngay bài thơ họa chuyển cho Văn Lợi, cũng bốn chữ đầu thành tên Lâm Thị Mỹ Dạ: "Lâm ly kẻ mặt chau mày/ Thị thành son phấn làm bay hương đồng/ Mỹ miều má thắm môi hồng/ Dạ còn trong sáng như dòng sông quê". Văn Lợi liền ứng tác tiếp bài thơ khác. Lần này bốn chữ đầu bốn câu thành tên Hoàng Phủ Ngọc Tường: "Hoàng hôn về lối xóm/ Phủ bóng người gái quê/ Ngọc ngà nơi thôn dã/ Tường tận càng đam mê". Hoàng Phủ đọc xong, nhẹ nhàng đưa cho Lâm Thị Mỹ Dạ. Mỹ Dạ đỏ mặt, rồi ứng tác ngay bài họa: Hoàng cung xưa vẫn còn đây
Phủ rêu năm tháng xanh dày thời gian
Ngọc kia lũ đã cuốn tràn
Tường giăng kín mít bóng hoàng hôn buông.
Chơi thơ là sinh hoạt lý thú của làng thơ, làm cho người nghe sảng khoái và yêu thêm sự bí ẩn và kỳ diệu của thơ!
NGÔ MINH