Đào tạo theo chương trình tiên tiến: Chất lượng tốt nhưng chưa thu hút nhiều người học

Thứ bảy, 18/06/2016 09:55

(Cadn.com.vn) - Đề án "Đào tạo theo chương trình tiên tiến tại một số trường ĐH Việt Nam giai đoạn 2008-2015" được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại QĐ số 1505-2008. Trường ĐH Bách khoa thuộc ĐH Đà Nẵng (ĐHĐN) là một trong số những trường ĐH đầu tiên của cả nước được lựa chọn tham gia đề án này với 2 ngành đào tạo: Điện tử Viễn thông và Hệ thống nhúng. Trong đó, ngành Điện tử Viễn thông được nhà trường thực hiện trước khi Đề án này phê duyệt. Mặc dù được đánh giá cao về chất lượng đào tạo, nhưng đến nay, 2 ngành đào tạo theo chương trình tiên tiến (CTTT) này vẫn chưa thực sự thu hút nhiều người học.

Chất lượng đào tạo đạt chuẩn  

Ngành Điện tử Viễn thông ECE của Trường ĐH Bách khoa được triển khai vào năm học 2006-2007 nhờ sự hỗ trợ của Cty Boeing (Hoa Kỳ) và đối tác của chương trình là University of Washington (Seattle, Washington, Hoa Kỳ). Ngành Hệ thống nhúng ES được triển khai vào năm học 2008-2009 với sự hỗ trợ của Cty Intel và đối tác là Portland State University (Portland, Oregon, Hoa Kỳ). Để tham gia học chương trình này, một trong những yêu cầu đối với SV là trình độ tiếng Anh: năm học thứ nhất là 52 Toefl Ibt, cuối khóa là Toefl Ibt 71.

Với một chương trình đào tạo được xây dựng, điều chỉnh và phát triển theo các quy trình chuẩn quốc tế, căn cứ vào nhu cầu của các bên liên quan như: yêu cầu phát triển kinh tế của quốc gia, địa phương; nhu cầu của nhà tuyển dụng, nhu cầu của người học và cả từ sự phản hồi của cựu SV..., cùng một đội ngũ giảng viên được đào tạo chuyên sâu, trình độ giỏi, có sự trao đổi, hợp tác với giảng viên quốc tế, có thể nói, CTTT của 2 ngành đào tạo theo đề án này tại Trường ĐH Bách khoa được các chuyên gia quản lý ngành GD-ĐT trong và ngoài nước đánh giá cao về chất lượng.

GS-TS Lê Kim Hùng- Hiệu trưởng Trường ĐH Bách khoa cho biết, trong môi trường học tập năng động đó, với một CTTT có nhiều điểm ưu việt nổi trội hơn so với chương trình truyền thống, SV sau khi tốt nghiệp CTTT có kiến thức, kỹ năng, thái độ đáp ứng nhu cầu của xã hội, đặc biệt năng lực tiếng Anh và kỹ năng mềm có chất lượng tốt hơn hẳn SV đại trà cùng ngành và khác ngành. Tỉ lệ SV tốt nghiệp CTTT có việc làm sau 1- 6 tháng rất cao, nếu không muốn nói gần 100%. Hầu hết SV sau khi tốt nghiệp được các DN quốc tế hoạt động tại Việt Nam và các DN trong nước nhận vào làm việc và chứng tỏ được năng lực.

GS-TS Lê Kim Hùng- Hiệu trưởng Trường ĐH Bách khoa Đà Nẵng phát biểu tại hội nghị tổng kết việc triển khai đề án theo CTTT của trường.

Quảng bá thương hiệu chưa cao

Tuy nhiên, thẳng thắn đánh giá về sự lan tỏa của CTTT này, bản thân người phụ trách 2 ngành học nói trên là TS Nguyễn Thị Anh Thư (CTTT ECE) và TS Nguyễn Lê Hòa (CTTT ES) đều cho biết, đến nay, số lượng SV đăng ký theo học còn rất thấp, biến động theo từng năm. Ngoài mức học phí cao hơn nhiều so với chương trình truyền thống khác, theo các nhà quản lý Trường ĐH Bách khoa, nguyên nhân không kém phần quan trọng là yêu cầu về trình độ tiếng Anh khiến nhiều thí sinh không dám đăng ký vào học (đặc biệt là thí sinh ở các khu vực  nông thôn còn hạn chế). Mặt khác, tính đến thời điểm này, CTTT của 2 chuyên ngành đào tạo này chỉ mới có 3 khóa SV ra trường nên việc quảng bá đến người học tại các trường THPT chưa cao.

Đánh giá cao về quá trình triển khai thực hiện đề án này, nhưng TS Nguyễn Văn Hựu- chuyên viên chính Vụ giáo dục ĐH Bộ GD-ĐT cho rằng, nhà trường cần chủ động hơn trong khâu tuyển sinh. Theo đó, trong khâu tuyển sinh, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng bá. TS Nguyễn Văn Hựu đơn cử cách làm của ĐH Thái Nguyên. Nhờ làm tốt khâu tuyên truyền, quảng bá nên đến nay, số lượng SV trong và ngoài nước theo học CTTT tại trường này khá cao.

Liên quan đến vấn đề SV sau một thời gian theo học CTTT này chuyển tiếp du học tại các trường ĐH đối tác nước ngoài và các trường ĐH khác trên thế giới khiến nhà trường mất đi một lượng SV giỏi, TS Nguyễn Văn Hựu cho rằng, điều quan trọng là cần tạo ra được mối quan hệ tương tác giữa SV chuyển tiếp du học với việc quảng bá thương hiệu CTTT đến với người học. Nói cách khác, cần có chế tài trách nhiệm đối với SV từng theo học CTTT này khi chuyển tiếp du học.  Điều quan trọng hơn cả, nhà trường phải thực hiện tốt công tác quản lý, xem đây là công tác then chốt để vận hành, phát huy hiệu quả của CTTT này. 

Ngoài ra, TS Nguyễn Văn Hựu cũng lưu ý, nhà trường cần chú đến công tác kiểm định chất lượng CTTT. Theo đó, quy trình phát triển CTTT của nhà trường cần phải mạch lạc, minh chứng phải cụ thể, nhân chứng (SV và DN) phải chứng thực được đây là chương trình rất tốt. Mặt khác, cần chú ý đến quá trình trao đổi SV quốc tế theo học CTTT tại trường. Hiện nay, số lượng SV quốc tế, đặc biệt là các trường đối tác quốc tế tại Trường ĐH Bách khoa chưa nhiều so với các trường triển khai thực hiện đề án này trong cả nước. Song song đó, cần chú trọng đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu khoa học trong SV.

Ghi nhận những ý kiến đóng góp xác đáng của TS Nguyễn Văn Hựu, GS-TS Trần Văn Nam- Giám đốc ĐHĐN, khẳng định chất lượng đào tạo của CTTT của Trường ĐH Bách khoa Đà Nẵng là điều không thể phủ nhận. GS-TS Trần Văn Nam cũng thừa nhận, ngoài nguyên nhân khách quan, thì nguyên nhân chủ quan khiến sự lan tỏa của CTTT chưa thực sự đến với người học là do khâu quảng bá thương hiệu chưa tốt. Theo GS-TS Trần Văn Nam, so với CTTT ngành Điện tử Viễn thông thì ngành Hệ thống nhúng chưa được người học biết đến nhiều bởi khái niệm này vẫn còn khá mới lạ với nhiều người học. Tuy nhiên, nếu hiểu rõ hơn về vai trò, tầm quan trọng của ngành học này trong thời đại công nghệ, chắc chắn số lượng người đăng ký học sẽ tăng.

P.Thủy