Ghi trên Bến cảng Nhà Rồng
“Đây”
(Cadn.com.vn) - Nắng sớm mai dát vàng thành phố. Pa-nô, áp-phích, cờ phướn rộn rã đón chào. Từng đoàn người nườm nượp tìm về nơi Bác Hồ cất bước ra đi. Rẽ ra từ đoàn người ấy, tôi đến tựa mình vào gốc cây phượng vĩ già đang mải miết bung ra ngàn vạn cánh hoa đỏ thắm. Trước mắt hiện lên cả một khung trời lộng lẫy. Bức tượng Nguyễn Tất Thành đang cất bước oai phong mạnh mẽ trong dáng vẻ mảnh mai, vầng trán rạng ngời.
Tôi như lọt thỏm giữa không gian, lùi sâu vào thời gian, vùi suy nghĩ vào những trang sử học. Và mường tượng, 100 năm trước, như bức ảnh còn lưu trữ bên trong bảo tàng, bến sông này vẫn còn mang một màu xam xám. Bức ảnh chụp năm 1866, tức là cách 45 năm trước khi Nguyễn Tất Thành bước chân lên thuyền buôn Latouche Torevile, cho thấy bến Nhà Rồng lúc đó là một tòa nhà nguy nga giữa cảnh nhếch nhác xung quanh. Còn trên sông Sài Gòn, tàu chiến lẫn thuyền buôn Tây Âu đang ngự trị, xung quanh là những chiếc xuồng nhỏ của người bản xứ. Đến bức ảnh chụp ở giai đoạn muộn hơn, khung cảnh ấy vẫn chưa có gì thay đổi. Đêm trường nô lệ trải mấy mươi năm vẫn nguyên một màu ảm đạm, phủ lên vạn phận người.
Nguyễn Tất Thành bước ra đi từ trong khung cảnh ấy, ngày 5-6-1911. Phía sau lưng là cả một quê hương đang oằn mình dưới nhiều ách đô hộ, bóc lột đến kiệt cùng, và bầu không khí ngột ngạt bao trùm lên suốt cõi trời
![]() |
Tuổi trẻ CAND Việt Nam thăm Bảo tàng Hồ Chí Minh. Ảnh: Nguyễn Lê |
Trên bến sông này, đúng 100 năm về trước, khi được hỏi lấy gì mà ra đi, dựa vào đâu mà đi, chàng thanh niên mảnh dẻ đã giơ hai bàn tay trắng lên và nói: “Đây”. Hành trình cứu nước của Nguyễn Tất Thành bắt đầu bằng một câu khẳng định ngắn gọn đến vô cùng! Không thể nào ngắn gọn hơn được nữa, nhưng chắc cũng không gì mênh mông kỳ diệu hơn thế nữa. Từ đôi bàn tay trắng, Nguyễn đã bôn ba qua khắp chân trời góc bể, để tìm ra một chân lý vĩ đại: “Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Hàng nghìn công trình nghiên cứu, hàng vạn trang sách, hàng triệu bài báo đã đề cập đến cuộc ra đi vĩ đại mà đầy thi vị năm ấy. Hành trình của Nguyễn Tất Thành không chỉ “ra đi là để trở về” mà chính con người trẻ tuổi lỗi lạc này đã mang đất nước, con người, nền văn hóa Việt
Về trong nước, chân lý tìm được trong chuyến hành trình của Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh – đã được chứng minh bằng những trang sử mới của lịch sử Việt Nam, với một Cách mạng Tháng Tám đưa dân ta thoát khỏi đêm trường nô lệ; chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 “vang dội năm châu, chấn động địa cầu”; với Đại thắng Mùa Xuân năm 1975 quét sạch bóng thù, thống nhất giang sơn và cả chặng đường dài mãi mãi về sau để dân tộc Việt Nam sánh vai cùng cường quốc năm châu.
Tất cả những điều đó, bắt đầu bằng tiếng “đây!” - đôi bàn tay trắng.
![]() |
Bến Nhà Rồng nay là Bảo tàng Hồ Chí Minh. Ảnh: N.L |
Gửi Người muôn vạn trái tim
Nơi Bác khởi hành ra đi tìm đường cứu nước nay đã trở thành di tích lịch sử và cũng là Bảo tàng Hồ Chí Minh. Chị Trần Bích Ngà, người nhiều năm công tác ở nơi này đã chứng kiến không biết bao nhiêu cử chỉ mến yêu xúc động của đồng bào cả nước, kiều bào ta ở nước ngoài và cả bạn bè quốc tế đến thăm viếng bảo tàng mang tên Bác. Từ những em thiếu niên nhi đồng đến những cụ già, từ người lính ở Trường Sa mới đặt chân xuống đất liền đến các vị nguyên thủ quốc gia đều luôn bày tỏ niềm xúc động trắng trong khi bắt gặp những kỷ vật của Người, đó là đôi dép cao su giản dị, chiếc máy đánh chữ cũ, hay chỉ giản đơn là một tấm hình phủ lấp màu thời gian. Chỉ tôi xem cuốn sổ ghi cảm tưởng, chị Trần Bích Ngà, bảo: “Trong này, nhiều tình cảm lắm”.
MÍT-TINH TRỌNG THỂ KỶ NIỆM 100 NĂM NGÀY BÁC HỒ RA ĐI TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC Nguyễn Lê |
Một cụ già, có lẽ vậy, qua nét chữ run run, viết: “Tôi luôn tâm niệm suốt đời rằng, tôi là người sinh ra và lớn lên ở Việt
Cảm phục về dân tộc Việt
Chỉ riêng tại một góc nhỏ của Bảo tàng Hồ Chí Minh, không ai có thể nào chép lại hết lời thể hiện tình cảm từ những trái tim dành cho Bác, bởi mỗi ngày qua đi, những tình cảm ấy càng lan tỏa đến mênh mông, và những lời ấy là bất tận.
Ghi chép: Nguyễn Lê