Hòn vọng phu – tượng đài âm nhạc Lê Thương

Thứ bảy, 31/10/2009 00:00

(Cadn.com.vn) - Có lẽ không riêng gì tôi, mà hầu như tất cả những ai từng yêu, từng đắm say dòng âm nhạc tiền chiến, hễ mỗi lần gọi tên nhạc sĩ Lê Thương, là lập tức nhớ đến ngay 3 bài ca “Hòn vọng phu” của ông. Cố nhiên là suốt một cuộc đời sáng tác, Lê Thương còn có cả trăm ca khúc trữ tình khác, nhưng thường thì, vẫn cứ “Hòn vọng phu” trước đã.

Nếu như cùng ngồi tụ năm, tụ ba, có khi lại cùng vỗ tay vang vang: “Lệnh vua hành quân, trống kêu dồn. Quan với quân lên đường, đoàn ngựa xe cuối cùng...”. Đây không phải là sáng tác đầu tay của ông, ca khúc đầu tiên Lê Thương viết năm ông mới 19 tuổi (1933), đó là bài “Tiếng đàn âm thầm”.

 Nhạc sĩ Lê Thương

Mãi hơn 10 năm sau, tức là thời gian ông đã tạm biệt Hà Nội, rong ruổi những chuyến “hành phương Nam”, lưu lạc đến tận miền Tây – Nam Bộ, đúng vào quãng thời gian cả nước hừng hực không khí chuẩn bị khởi nghĩa, làm nên cuộc Cách mạng tháng Tám lịch sử, năm tháng đó và lần lượt về sau, Lê Thương cho ra đời 3 ca khúc: Hòn vọng phu I (được diễn giải là Người ra đi), Hòn vọng phu II (Ai xuôi vạn lý) và Hòn vọng phu III (Người chinh phu trở về). Huyền thoại nhạc sĩ Lê Thương, đỉnh của âm nhạc Lê Thương, có lẽ bắt đầu từ những ca khúc mang đầy phong vị và âm hưởng sử ca đó.

Không nhuốm màu u buồn như truyền thuyết “Hòn vọng phu”, người cô phụ ẵm con chờ đợi chồng về đã hóa đá như khảm khắc một lời nguyền vĩnh cửu giữa bao la đất trời. Từng bài “Hòn vọng phu” của Lê Thương, kết nối lại thành một “truyện ca” theo mạch chủ đề của từng ca khúc. Nếu như khởi đầu “Hòn vọng phu I” tiết tấu dồn dập nhịp quân đi hùng tráng: “Lệnh vua hành quân trống kêu dồn, quan với quân lên đường...” thì “Hòn vọng phu II” theo giai điệu espressivo (trữ tình) như kể lể, vừa có tính bi tráng, lại vừa dí dỏm.

Lúc thì: “Có ai xuôi vạn lý, nhắn đôi câu giúp nàng, lấy cây hương thật quý.Thắp lên thương tiếc chàng...”. Lúc thì: “Có con chim nhỏ bé, dám ca câu sấm thề, cuối thu năm Mậu Tý,Tướng quân đem kiếm về...”. Đến “Hòn vọng phu III” thì giai điệu chuyển qua Largo - chậm rãi và đầy cảm khái hợp với mạch chủ đề “Người chinh phu trở về”, một kết thúc đẹp, giai điệu long lanh như vung vãi từng giọt thanh âm trên đường chinh chiến trở về.

Giá trị biểu cảm (valeur expressionnelle) của âm thanh trong mỗi từng quãng ca khúc như gieo vào lòng người mênh mang dạt dào cung bậc cảm xúc. Dường như gieo vào đấy, không huyên náo mà sâu lắng, một thứ sâu lắng tạo thành lửa ngầm cháy âm ỉ, hễ có dịp khơi gợi đến là bùng lên, là trào dâng. “Đường chiều mịt mù cát bay tỏa bước ngựa phi, đường trường nếp tàn y... Từ bóng cây ngôi mộ bên đường, từ mái tranh bên đình trong làng... Bao mối thương vang dậy trong lòng”.

Chúng ta đều biết thế hệ nhạc sĩ Lê Thương là lớp khai mở nên buổi bình minh cho nền tân nhạc (ông sinh năm 1914). Nếu như đồng thời với giai đoạn 1932 – 1945, Thơ mới vang dội những thành công, thì âm nhạc cũng tiếp nhận những ngọn gió mới từ phương Tây. Từng nhạc sĩ tiên phong, mỗi người một phong cách, một thiên tài, khai phá cho mình một con đường, tạo ra một thời kỳ khai sáng mà sức lan tỏa của nó vượt thời gian như xác lập một giá trị vĩnh hằng.

Cũng như trào lưu Thơ mới, cái khí vị cổ xưa như một chất men nồng trong thơ Thâm Tâm: “Ly khách, ly khách con đường nhỏ. Chí lớn chưa về bàn tay không. Thì không bao giờ nói trở lại. Ba năm, mẹ già cũng đừng mong”. Hoặc như Thanh Tịnh: “Em ơi nhẹ cuốn bức rèm tơ. Tìm thử chân mây khói tỏa mờ. Có bóng tình quân muôn dặm ruỗi. Ngựa hồng tung bụi cõi xa mơ”...

Vọng phu... (Ảnh minh họa) 

Bóng dáng của những cuộc lên đường, dấn thân hay là chinh chiến, luôn là những rạo rực bức phá, bùng nổ, mở ra chân trời khát vọng. Âm hưởng âm nhạc sử ca của Lê Thương cũng nhuốm màu "muôn dặm ruỗi chinh chiến" ấy, nhưng cụ thể hơn, muôn dặm rong ruỗi chinh chiến ấy ở đây là: “Qua Thiên San kìa ai tiễn rượu vừa tàn... Bên Man Khê còn tung gió bụi mịt mùng. Bên Tiêu Tương còn thương tiếc nơi ngàn trùng. Người không rời khỏi kiếp gian nan...”.

Lẽ đương nhiên, chinh chiến lúc bấy giờ là chinh chiến với giặc Pháp, nhưng suốt 3 bài Hòn vọng phu chỉ nghe thấy gươm khua, ngựa hí, trống dồn... một âm hưởng ra trận của những chiến binh cổ sử hơn là thời... hiện đại.

Sinh ra trong một gia đình có truyền thống âm nhạc (nhạc cổ) tại Hà Nội. Thời hoa niên Lê Thương, hẳn đã từng không ít lần tham dự hát ả đào, ca trù, hát đúm... Đành rằng, là thế hệ tiên phong của nền tân nhạc, nhưng cái vốn truyền thống đó cũng là mạch nguồn cho sáng tác của ông.

Là một nhạc sĩ tài hoa, một vị thầy dạy âm nhạc cho nhiều thế hệ học trò suốt từ Hải Phòng, Hà Nội cho đến Sài Gòn, dấu chân của ông dường như mòn nhẵn trên đường thiên lý Bắc – Nam. Không hiểu bao nhiêu tình yêu đã cùng ông, đã tiếp sức cho ông sinh nở ra hàng trăm ca khúc. Và, vào một ngày mùa thu, nhạc sĩ Lê Thương sau những ngày nằm trên giường bệnh, ông đã trút hơi thở cuối cùng trên tay người vợ yêu quý của mình.

 Bao năm rồi ông đã đi xa, và những “Hòn vọng phu” cao ngất giữa lớp lớp khói sương ấy, đã thay ông ở lại trong tâm hồn mọi người. Nó vừa là huyền thoại và cũng là địa vị của nhạc sĩ Lê Thương trong lịch sử âm nhạc Việt. Một vị trí không dễ cho bất cứ ai điền tên của mình, bởi lẽ giờ đây “Hòn vọng phu” nhạc Lê Thương đã là Hòn vọng phu truyền thuyết để mỗi chúng ta vọng tưởng nhớ về!

Nguyễn Nhã Tiên