TƯ VẤN PHÁP LUẬT

Làm thế nào để buộc chồng cũ thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con?

Thứ sáu, 22/08/2025 15:43

*Bạn đọc hỏi: chị An, hiện đang sinh sống tại TP Đà Nẵng, hỏi: Tôi và chồng cũ đã chính thức ly hôn vào tháng 11/2019. Chúng tôi có 1 con chung sinh năm 2008. Theo bản án thì tôi là người trực tiếp nuôi con, còn chồng cũ của tôi phải cấp dưỡng 5 triệu đồng mỗi tháng cho đến khi con đủ 18 tuổi. Tuy nhiên, từ khi bản án có hiệu lực đến nay, chồng cũ của tôi hoàn toàn không hề thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nói trên. Tôi nghe nói, trường hợp này tôi có thể yêu cầu cơ quan thi hành án cưỡng chế buộc chồng cũ của tôi phải thực hiện nghĩa vụ. Tuy nhiên, đến nay là đã hơn 5 năm từ ngày bản án được tuyên, thì tôi còn có thể yêu cầu cơ quan thi hành án hỗ trợ không? Và tôi cần làm gì để được hỗ trợ?

Luật sư Phan Thụy Khanh
Luật sư Phan Thụy Khanh

*Luật sư Phan Thụy Khanh – Phó trưởng Văn phòng Luật sư Phong & Partners, trả lời:

Trong thực tế đời sống hôn nhân – gia đình, sau khi ly hôn, việc một bên không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con theo bản án của Tòa án không phải là trường hợp hiếm gặp. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi và điều kiện phát triển của con chung, mà còn tạo thêm gánh nặng về cả vật chất lẫn tinh thần cho người trực tiếp nuôi con. Trước tình huống đó, nhiều người không khỏi băn khoăn rằng phải làm thế nào để bên có nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện và liệu có thể nhờ đến sự hỗ trợ của cơ quan nhà nước để đảm bảo quyền lợi cho con hay không. Lúc này, việc hiểu rõ về quyền yêu cầu thi hành án, cũng như nắm bắt các quy định liên quan là điều cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con cái. Chị An có thể tham khảo câu trả lời của Luật sư như dưới đây.

Thứ nhất, chị An có thể yêu cầu cơ quan thi hành án cưỡng chế thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo bản án đã có hiệu lực pháp luật

Căn cứ khoản 1 Điều 7, Điều 26 Luật Thi hành án dân sự 2008, sửa đổi bổ sung 2014, thì người được thi hành án (người được hưởng quyền, lợi ích) hoàn toàn có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thực hiện việc cưỡng chế đối với người phải thi hành án (người có nghĩa vụ) để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của mình theo bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.

Việc cưỡng chế thi hành án được áp dụng khi hội đủ các điều kiện dưới đây (Điều 2, Điều 9 Luật Thi hành án dân sự 2008, sửa đổi bổ sung 2014):

Có bản án, quyết định của các cơ quan có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật hoặc thuộc trường hợp phải thi hành ngay theo quy định;

Người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành;

Người được thi hành án có yêu cầu thi hành án trong thời hiệu luật định.

Chị An và chồng cũ của chị đã chính thức ly hôn theo bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Theo đó, chồng cũ của chị là người phải thi hành án, có nghĩa vụ thực hiện việc cấp dưỡng cho con chung. Vì vậy, trong trường hợp chồng cũ của chị có đủ điều kiện, tài sản, thu nhập để cấp dưỡng cho con nhưng lại không thực hiện thì chị hoàn toàn có thể yêu cầu cơ quan thi hành án cưỡng chế thi hành, buộc chồng cũ thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo bản án, với điều kiện phải còn trong thời hiệu yêu cầu thi hành án.

Thứ hai, thời hiệu yêu cầu thi hành án là bao lâu?

Căn cứ khoản 6 Điều 3 Luật Thi hành án dân sự 2008, sửa đổi bổ sung 2014, thời hiệu yêu cầu thi hành án là thời hạn mà người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành án; hết thời hạn đó thì mất quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành án.

Cụ thể, khoản 1 Điều 30 Luật Thi hành án dân sự 2008, sửa đổi bổ sung 2014 quy định về thời hiệu yêu cầu thi hành án như sau:

Điều 30. Thời hiệu yêu cầu thi hành án

1. Trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi hành án.

Trường hợp thời hạn thực hiện nghĩa vụ được ấn định trong bản án, quyết định thì thời hạn 05 năm được tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn.

Đối với bản án, quyết định thi hành theo định kỳ thì thời hạn 05 năm được áp dụng cho từng định kỳ, kể từ ngày nghĩa vụ đến hạn.

Theo thông tin chị An chia sẻ, chồng cũ của chị có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 5.000.000 đồng, bắt đầu từ tháng 11/2019 cho đến khi con đủ 18 tuổi. Đây là nghĩa vụ được thực hiện định kỳ hàng tháng, nghĩa là mỗi tháng người chồng chỉ có nghĩa vụ thanh toán 5.000.000 đồng. Do đó, thời hiệu yêu cầu thi hành án trong trường hợp này sẽ được tính riêng cho từng tháng, với thời hạn là 5 năm kể từ ngày nghĩa vụ của tháng đó đến hạn.

Để làm rõ, thì “ngày nghĩa vụ đến hạn” trong trường hợp này được hiểu là ngày cố định trong tháng mà chồng cũ của chị phải gửi tiền cấp dưỡng con chung cho chị. Cụ thể:

Nếu bản án ly hôn có ấn định rõ ngày cấp dưỡng hàng tháng (ví dụ: ngày 15 hàng tháng), thì ngày đó chính là ngày nghĩa vụ đến hạn.

Nếu bản án không ghi rõ ngày cụ thể, thì ngày tuyên án sẽ được xem là ngày đến hạn cho kỳ thanh toán đầu tiên. Những tháng tiếp theo sẽ lấy ngày tương ứng của tháng đó làm ngày đến hạn (ví dụ: bản án tuyên ngày 10/11/2019 thì mỗi tháng sau, ngày 10 sẽ là ngày đến hạn).

Khác với bản án thông thường, vốn chỉ được thi hành sau khi đã có hiệu lực pháp luật (tức hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị), bản án về cấp dưỡng là một trong số ít trường hợp được pháp luật quy định thi hành ngay sau khi được tuyên, dù có thể còn trong thời hạn kháng cáo hoặc đang bị kháng nghị (khoản 2 Điều 2 Luật thi hành án dân sự 2008, sửa đổi bổ sung 2014). Sự khác biệt này phản ánh tính nhân văn của pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi cấp thiết của người yếu thế, không thể chờ đợi quá trình tố tụng kéo dài mới được nhận khoản hỗ trợ cần thiết cho đời sống.

Để làm rõ, chị An có thể xem ví dụ dưới đây: giả thiết ngày thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng là ngày 10 hàng tháng thì:

Nghĩa vụ của tháng 11/2019 đến hạn vào ngày 10/11/2019 → đã hết thời hiệu vào ngày 10/11/2024

Nghĩa vụ của tháng 07/2020 đến hạn vào ngày 10/07/2020 → đã hết thời hiệu vào ngày 10/07/2025

Nghĩa vụ của tháng 09/2020 đến hạn vào ngày 10/09/2020 → còn trong thời hiệu đến ngày 10/09/2025

Như vậy, mặc dù đã hơn 5 năm kể từ ngày bản án ly hôn được tuyên, nhưng chị An vẫn có thể yêu cầu thi hành án đối với những tháng chưa quá thời hạn 5 năm tính đến hiện tại. Riêng các khoản cấp dưỡng của những tháng đã quá 5 năm thì do đã hết thời hiệu, nên chị An không có quyền yêu cầu thi hành án đối với phần nghĩa vụ này.

Thứ ba, chị An cần làm gì để yêu cầu thi hành án?

Căn cứ mục 3 Công văn số 3769/BTP-TCTHADS hướng dẫn thực hiện các nội dung về công tác THADS khi sắp xếp tổ chức bộ máy, thì kể từ ngày 1/7/2025, chị An có thể tự mình thực hiện hoặc ủy quyền cho người khác gửi yêu cầu thi hành án đến cơ quan thi hành án dân sự thành phố Đà Nẵng hoặc bất kỳ phòng thi hành án dân sự khu vực nào trong phạm vi địa bàn thành phố Đà Nẵng thông qua một trong hai hình thức sau:

Nộp đơn yêu cầu thi hành án: nộp trực tiếp hoặc gửi đơn qua bưu điện đến địa chỉ của cơ quan thi hành án dân sự.

Trực tiếp trình bày yêu cầu thi hành án bằng lời nói: lúc này, cơ quan thi hành án dân sự sẽ lập biên bản có các nội dung theo quy định, có chữ ký của người lập biên bản. Biên bản này có giá trị như đơn yêu cầu.

Bên cạnh đó, chị An còn cần phải nộp kèm bản án ly hôn của vợ chồng ghi nhận nghĩa vụ cấp dưỡng của chồng cũ và các tài liệu khác có liên quan (nếu có) để làm cơ sở cho việc xem xét và ra quyết định thi hành án. Ngày yêu cầu thi hành án được tính từ ngày chị An hoặc người được ủy quyền nộp đơn hoặc trình bày trực tiếp hoặc ngày có dấu bưu điện nơi gửi.

Theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 31 Luật Thi hành án dân sự 2008, sửa đổi bổ sung 2014, yêu cầu thi hành án dân sự được trình bày trực tiếp hoặc trình bày trong đơn yêu cầu cần phải có các nội dung sau đây:

Tên, địa chỉ của người yêu cầu;

Tên cơ quan thi hành án dân sự nơi yêu cầu;

Tên, địa chỉ của người được thi hành án; người phải thi hành án;

Nội dung yêu cầu thi hành án;

Thông tin về tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, nếu có;

Ngày, tháng, năm làm đơn;

Chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm đơn; trường hợp là pháp nhân thì phải có chữ ký của người đại diện hợp pháp và đóng dấu của pháp nhân, nếu có.

Trong vòng 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu thi hành án, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự sẽ ra quyết định thi hành án, sau đó thông báo cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày chồng cũ của chị An nhận được hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án, có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thực hiện thì sẽ bị cưỡng chế thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định. (Điều 36 Luật Thi hành án dân sự 2008, sửa đổi bổ sung 2014)

Thực tế, không chỉ riêng trường hợp của chị An, mà trong cả các tranh chấp khác, bản án hay quyết định của Tòa án vẫn chưa phải là điểm kết thúc nếu các bên không tự nguyện thi hành nghĩa vụ đã được tuyên. Khi đó, vai trò của cơ quan thi hành án dân sự trở nên đặc biệt quan trọng để đảm bảo tính thực thi của pháp luật. Do đó, bên cạnh các quy định liên quan đến thủ tục tố tụng tại tòa án, người dân cũng cần phải nắm bắt thêm các quy định về thi hành án để bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi cần thiết.

Chuyên mục này có sự hợp tác về chuyên môn của Văn phòng Luật sư Phong & Partners. Đường dây nóng hỗ trợ tư vấn: 0236.3822678 - 0905.102425

Không đăng ký kết hôn,có được yêu cầu cấp dưỡng và chi phí nuôi con?

*Bạn đọc hỏi: chị Cúc, hiện sống tại Đà Nẵng, hỏi: Năm 2020, tôi và bạn trai cũ sống chung và có với nhau một đứa con (đã giám định ADN). Mặc dù nhận con nhưng sau khi sinh bé, anh ấy không đồng ý kết hôn nên chúng tôi chia tay. Sau đó, tôi đã làm khai sinh con theo họ mẹ, tự mình trực tiếp nuôi con mà không yêu cầu anh ấy hỗ trợ.

Làm sao để xác định thành viên hộ sử dụng đất theo giấy chứng nhận?

* Bạn đọc hỏi: chị Tâm đang sinh sống tại H.Đại Lộc (Quảng Nam) hỏi: Tôi cùng dì ruột và bà ngoại của tôi chung sống trên thửa đất từ trước năm 1975 đến nay. Trong quá trình chung sống, dì tôi có tiến hành kê khai, đăng ký với Nhà nước theo quy định pháp luật. Đến năm 1995, thửa đất được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ đứng tên dì tôi.

Cần làm gì khi bị ngăn cản quyền thăm nom, chăm sóc con sau ly hôn?

*Bạn đọc hỏi: anh Quốc, hiện đang sinh sống tại TP Hội An (Quảng Nam), hỏi: Tôi và vợ cũ ly hôn được nửa năm và Tòa đã giao con trai 8 tuổi của chúng tôi cho vợ cũ trực tiếp nuôi dưỡng. Tôi có nghĩa vụ cấp dưỡng hàng tháng cho con và đã thực hiện đầy đủ, đúng hạn. Tuy nhiên, mỗi khi tôi liên hệ để gặp con hoặc đến thăm, vợ cũ thường từ chối,