Bác Hồ tìm đường cứu nước
(Cadn.com.vn) - Bác Hồ vào Phan Thiết dạy học ở Trường Dục Thanh của Hội Liên Thành. Bác sĩ Nguyễn Kinh Chi trước ở Bộ Y tế là học trò của thầy Thành khi còn sống đã kể: Thầy giáo Thành dạy lớp ba, thầy thường mặc áo vải, chân đi guốc. Trong giờ địa lý, thầy giáo Thành dạy tiếng Pháp, tôi còn nhớ mãi buổi học đầu tiên, thầy Thành dạy: “Montagne” là núi, “rivière” là sông. Núi kia là núi của ai? Sông xanh nước biếc chảy dài đi đâu? Tổ tiên ta kiên cường, giang sơn ta gấm vóc. Thầy giáo Thành đã dạy chúng tôi như vậy!
Ông Chi học xong rồi đi du lịch. Ông thắc mắc tại sao thầy giáo Nguyễn Tất Thành dạy rừng núi, sông ngòi, đất đai là của ta. Thế mà bây giờ Tây nó lại lấy. Đời sống của người lao động thì khổ cực, nghèo đói. Ông Chi suy nghĩ và càng thấm thía những lời giảng của thầy giáo Thành gieo vào lòng tuổi trẻ nhiều ý nghĩa. Ông và các bạn ở Trường Dục Thanh cũ dần dần ghét Tây, bắt đầu đi tìm cách mạng và trở thành người cộng sản.
![]() |
Sinh thời, Bác Hồ đặc biệt quan tâm đến sự nghiệp trồng người. Ảnh: Tư liệu |
Rời Phan Thiết, Bác Hồ vào Sài Gòn học nghề. Ngày ngày, lúc học xong, Bác thường xuống xem cảng Sài Gòn. Bác đi để biết tình hình. Ở cảng này, Bác Hồ làm quen với ông Mai, được ông giới thiệu xuống làm ở chiếc tàu của hãng “Vận tải hợp nhất” của Pháp. Tàu Đô đốc Latuso Trevin chuyên chở thực phẩm cho Pháp ở thuộc địa. Ông Mai, người ở An Dương (Hải Phòng), gặp Bác lần đầu đã thấy mến. Khi Bác Hồ ngỏ ý muốn xin làm ở dưới tàu. Ông Mai vui vẻ nhận lời giới thiệu giúp Bác. Ông đưa Bác đến gặp thuyền trưởng người Pháp. Người thuyền trưởng nói: “Nếu cần làm việc ở đây, 8 giờ sáng mai đến”. Tối hôm ấy về chỗ ở, Bác rủ thêm một người bạn cùng đi Pháp. Người bạn thân đó nói: “Ta đi Pháp sẽ chết đói thôi, bởi vì chúng ta không có tiền để ăn”. Bác đã giơ tay ra và nói: “Tiền là ở đây, vàng là ở đây. Chúng ta còn trai trẻ. Chúng ta sẽ làm lụng để sống”.
Sáng hôm sau, người bạn ấy ngần ngại không đi. Bác chia tay anh ta. Ông Mai đưa Bác xuống tàu gặp người thuyền trưởng. Nhìn Bác một lát, người thuyền trưởng Pháp nói: “Ở đây không có việc gì nhẹ cho anh làm cả. Chỉ có những việc nặng thôi, trông anh gầy yếu thế kia. Làm sao nổi?!”. Bác trả lời: “Vâng, tôi gầy yếu thật, nhưng tôi còn trai trẻ, tôi có nghị lực, tôi có thể làm được tất cả!”. Người thuyền trưởng thấy Bác nhanh nhẹn, nói tiếng Pháp rất chuẩn nên cho làm phụ bếp. Bác nhận lời làm việc ở đây và lấy tên là Văn Ba.
Qua những ngày làm việc đầu tắt mặt tối ở dưới tàu, Văn Ba nhận thấy ở đây có hai hạng người: người bị bóc lột và người đi bóc lột. Hai thái cực đó thật là rõ ràng. Công việc mà Bác phải làm hằng ngày thật là cực nhọc: hết bưng bê những thùng rượu để phục vụ các bữa ăn, rồi rửa bát, nồi xoong, giặt giũ, lau bàn ghế, đánh bóng boong tàu. Suốt ngày Bác nhễ nhại mồ hôi và mình đầy than bụi. Công việc vất vả nhưng khi được nghỉ tay là Bác tranh thủ dạy ông Mai chữ Quốc ngữ.
Bác lĩnh được 10 quan, dần dà sau này được 50 quan (trong khi đó mỗi nhân viên người Việt
Khi khỏi bệnh Bác xin làm ở tiệm ăn Cáclơtông, một khách sạn lớn nhất nước Anh lúc bấy giờ. Khách sạn có một người Pháp tên là Ecôpphie làm bếp nổi tiếng được người ta đặt tên là “Vua bếp”. Những tiệc lớn của Nữ hoàng Anh đều do ông ta đứng ra đảm nhận.
Một hôm anh Ba đang rửa bát. Vua bếp đi qua hỏi:
- Anh Ba, anh đổ các thứ thừa đi, chứ anh để lại làm gì?
- Ở đây thừa đổ đi - anh Ba trả lời - nhưng ngoài kia những người đói lại đang cần, tôi để lại lát nữa cho người ta.
“Vua bếp” ra chiều cảm động vì thấy một thanh niên Châu Á có lòng nhân hậu như vậy nên rất có cảm tình. Nhân đó Bác lại nói:
- Xin ông cho tôi làm công việc gì có nhiều tiền để tôi chi trả tiền học tiếng Anh. Tôi học 5 bài đã mất 5 đồng, trong khi đó tôi chỉ được trả có 6 đồng, còn lại không đủ ăn trong một tuần lễ.
“Vua bếp” cười bảo:
- Tôi là người Pháp mà không học được tiếng Anh, còn anh là người Châu Á mà dám học tiếng Anh à? Tôi ở đây 2 năm rồi mà chỉ biết có vài ba tiếng “vâng” và "không".
Nói vậy, nhưng ông vẫn giúp Bác. Bác được bố trí đốt lò. Thế là từ 5 giờ sáng đến 8 giờ tối Bác phải lao động nặng nhọc dưới hầm lò. Tuy tiền công có được nhiều hơn, nhưng không được học hành, vì đêm về mệt lả làm sao đi học được nữa. Do đó Bác tìm gặp “Vua bếp” yêu cầu cho Bác làm công việc khác. “Vua bếp” xếp cho Bác làm bánh ga-tô, đỡ nặng nhọc hơn và có thêm tiền để học. Thời kỳ này Bác tranh thủ học nhiều ngoại ngữ: Năm 1913, 1914 ở Anh, Bác học tiếng Anh do một Giáo sư người Italia dạy. Vị giáo sư này biết tiếng Đức, nên Bác tranh thủ học cả tiếng Đức và Italia của ông. Thời gian này, Bác có quan hệ với các nhà yêu nước ở Ấn Độ như Gandhi. Nhà sử học Thụy Điển, trong một cuốn sách viết về Bác, cho biết: năm 1915 Bác ở khu vực người da đen
Khi Cách mạng tháng Mười Nga thành công. Bác rất vui mừng, phấn khởi. Bác vào Đảng xã hội Pháp. Tháng 3-1919, Quốc tế thứ ba (tức quốc tế Cộng sản) thành lập, Lênin có đọc bản luận cương về cách mạng thuộc địa. Khi tiếp thu bản luận cương ấy, Bác đã nói: “Luận cương của Lênin đã làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi sáng tỏ, tin tưởng biết bao. Tôi vui mừng phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng, mà tôi nói to, như đang nói trước quần chúng đông đảo. Hỡi đồng bào bị đọa đày, đây là cái cần thiết cho chúng ta!”. Bác tiếp thu điều này rất sâu sắc. Báo Gramma
Vâng lời Bác dạy:
Không có việc gì khó,
Chỉ sợ lòng không bền.
Đào núi và lấp biển,
Quyết chí ắt làm nên.
Đoàn Minh Tuấn