Bác Hồ tìm đường cứu nước

Thứ sáu, 20/05/2011 00:00

(Cadn.com.vn) - Bác Hồ vào Phan Thiết dạy học ở Trường Dục Thanh của Hội Liên Thành. Bác sĩ Nguyễn Kinh Chi trước ở Bộ Y tế là học trò của thầy Thành khi còn sống đã kể: Thầy giáo Thành dạy lớp ba, thầy thường mặc áo vải, chân đi guốc. Trong giờ địa lý, thầy giáo Thành dạy tiếng Pháp, tôi còn nhớ mãi buổi học đầu tiên, thầy Thành dạy: “Montagne” là núi, “rivière” là sông.  Núi kia là núi của ai? Sông xanh nước biếc chảy dài đi đâu? Tổ tiên ta kiên cường, giang sơn ta gấm vóc. Thầy giáo Thành đã dạy chúng tôi như vậy!

Ông Chi học xong rồi đi du lịch. Ông thắc mắc tại sao thầy giáo Nguyễn Tất Thành dạy rừng núi, sông ngòi, đất đai là của ta. Thế mà bây giờ Tây nó lại lấy. Đời sống của người lao động thì khổ cực, nghèo đói. Ông Chi suy nghĩ và càng thấm thía những lời giảng của thầy giáo Thành gieo vào lòng tuổi trẻ nhiều ý nghĩa. Ông và các bạn ở Trường Dục Thanh cũ dần dần ghét Tây, bắt đầu đi tìm cách mạng và trở thành người cộng sản.

 Sinh thời, Bác Hồ đặc biệt quan tâm đến sự nghiệp trồng người. Ảnh: Tư liệu

Rời Phan Thiết, Bác Hồ vào Sài Gòn học nghề. Ngày ngày, lúc học xong, Bác thường xuống xem cảng Sài Gòn. Bác đi để biết tình hình. Ở cảng này, Bác Hồ làm quen với ông Mai, được ông giới thiệu xuống làm ở chiếc tàu của hãng “Vận tải hợp nhất” của Pháp. Tàu Đô đốc Latuso Trevin chuyên chở thực phẩm cho Pháp ở thuộc địa. Ông Mai, người ở An Dương (Hải Phòng), gặp Bác lần đầu đã thấy mến. Khi Bác Hồ ngỏ ý muốn xin làm ở dưới tàu. Ông Mai vui vẻ nhận lời giới thiệu giúp Bác. Ông đưa Bác đến gặp thuyền trưởng người Pháp. Người thuyền trưởng nói: “Nếu cần làm việc ở đây, 8 giờ sáng mai đến”. Tối hôm ấy về chỗ ở, Bác rủ thêm một người bạn cùng đi Pháp. Người bạn thân đó nói: “Ta đi Pháp sẽ chết đói thôi, bởi vì chúng ta không có tiền để ăn”. Bác đã giơ tay ra và nói: “Tiền là ở đây, vàng là ở đây. Chúng ta còn trai trẻ. Chúng ta sẽ làm lụng để sống”.

Sáng hôm sau, người bạn ấy ngần ngại không đi. Bác chia tay anh ta. Ông Mai đưa Bác xuống tàu gặp người thuyền trưởng. Nhìn Bác một lát, người thuyền trưởng Pháp nói: “Ở đây không có việc gì nhẹ cho anh làm cả. Chỉ có những việc nặng thôi, trông anh gầy yếu thế kia. Làm sao nổi?!”. Bác trả lời: “Vâng, tôi gầy yếu thật, nhưng tôi còn trai trẻ, tôi có nghị lực, tôi có thể làm được tất cả!”. Người thuyền trưởng thấy Bác nhanh nhẹn, nói tiếng Pháp rất chuẩn nên cho làm phụ bếp. Bác nhận lời làm việc ở đây và lấy tên là Văn Ba.

Qua những ngày làm việc đầu tắt mặt tối ở dưới tàu, Văn Ba nhận thấy ở đây có hai hạng người: người bị bóc lột và người đi bóc lột. Hai thái cực đó thật là rõ ràng. Công việc mà Bác phải làm hằng ngày thật là cực nhọc: hết bưng bê những thùng rượu để phục vụ các bữa ăn, rồi rửa bát, nồi xoong, giặt giũ, lau bàn ghế, đánh bóng boong tàu. Suốt ngày Bác nhễ nhại mồ hôi và mình đầy than bụi. Công việc vất vả nhưng khi được nghỉ tay là Bác tranh thủ dạy ông Mai chữ Quốc ngữ.

Bác lĩnh được 10 quan, dần dà sau này được 50 quan (trong khi đó mỗi nhân viên người Việt Nam ít nhất cũng phải lĩnh đến 100 quan). Lên đất Pháp, vì tiền ít, Bác thường phải thuê chỗ ngủ đứng. Ở Pháp lúc này có hai loại tiệm ngủ. Một loại ngủ giường đệm, màn và lò sưởi. Một loại là lấy vé vào ngủ đứng. Ở Pháp ít lâu, Bác đi Châu Phi, rồi Bác lại trở về Pháp. Lúc rời Châu Phi, Bác có nói: “Người ta nói ở Châu Phi có nhiều ác thú, nhưng ở đây mà ác hơn cả, chính là lũ thực dân”. Sau này, các đồng chí cộng sản quốc tế sang dự lễ tang Bác có cho biết: Bác đi Châu Phi trên một chiếc tàu buôn. Chiếc tàu buôn này rời cảng Le Havre đỗ tại biển phía đông châu Phi cho đến Congo. Mỗi khi tàu cập bến, Bác tìm cách lên thăm thành phố, khi chiếc tàu này trở về Pháp sửa chữa, người thuyền trưởng thấy anh Ba làm được việc, bèn giới thiệu đi làm bồi ở một chiếc tàu chở sĩ quan Pháp đi Anh nghỉ mát. Đến nước Anh, Bác không đi làm bồi tàu nữa. Lên thủ đô nước Anh, Bác tìm đến một trường học, Bác rất thích cuộc đời học sinh. Bác ngồi xem các em học và Bác làm quen được với một người gác cổng, Bác xin làm việc quét tuyết ở trường học này. Làm được một tuần lễ, vì lao động cực nhọc quá, trời lại rét buốt nên Bác bị cảm lạnh và sưng phổi phải thôi việc.

Khi khỏi bệnh Bác xin làm ở tiệm ăn Cáclơtông, một khách sạn lớn nhất nước Anh lúc bấy giờ. Khách sạn có một người Pháp tên là Ecôpphie làm bếp nổi tiếng được người ta đặt tên là “Vua bếp”. Những tiệc lớn của Nữ hoàng Anh đều do ông ta đứng ra đảm nhận.

Một hôm anh Ba đang rửa bát. Vua bếp đi qua hỏi:

- Anh Ba, anh đổ các thứ thừa đi, chứ anh để lại làm gì?

- Ở đây thừa đổ đi - anh Ba trả lời - nhưng ngoài kia những người đói lại đang cần, tôi để lại lát nữa cho người ta.

“Vua bếp” ra chiều cảm động vì thấy một thanh niên Châu Á có lòng nhân hậu như vậy nên rất có cảm tình. Nhân đó Bác lại nói:

- Xin ông cho tôi làm công việc gì có nhiều tiền để tôi chi trả tiền học tiếng Anh. Tôi học 5 bài đã mất 5 đồng, trong khi đó tôi chỉ được trả có 6 đồng, còn lại không đủ ăn trong một tuần lễ.

“Vua bếp” cười bảo:

- Tôi là người Pháp mà không học được tiếng Anh, còn anh là người Châu Á mà dám học tiếng Anh à? Tôi ở đây 2 năm rồi mà chỉ biết có vài ba tiếng “vâng” và "không".

Nói vậy, nhưng ông vẫn giúp Bác. Bác được bố trí đốt lò. Thế là từ 5  giờ sáng đến 8 giờ tối Bác phải lao động nặng nhọc dưới hầm lò. Tuy tiền công có được nhiều hơn, nhưng không được học hành, vì đêm về mệt lả làm sao đi học được nữa. Do đó Bác tìm gặp “Vua bếp” yêu cầu cho Bác làm công việc khác. “Vua bếp” xếp cho Bác làm bánh ga-tô, đỡ nặng nhọc hơn và có thêm tiền để học. Thời kỳ này Bác tranh thủ học nhiều ngoại ngữ: Năm 1913, 1914 ở Anh, Bác học tiếng Anh do một Giáo sư người Italia dạy. Vị giáo sư này biết tiếng Đức, nên Bác tranh thủ học cả tiếng Đức và Italia của ông. Thời gian này, Bác có quan hệ với các nhà yêu nước ở Ấn Độ như Gandhi. Nhà sử học Thụy Điển, trong một cuốn sách viết về Bác, cho biết: năm 1915 Bác ở khu vực người da đen Harlem (nước Mỹ) và làm nghề chụp ảnh. Năm 1916 sang Đức, trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Bác trở lại Pháp và ở nhà cụ Phan Châu Trinh. Ở Pháp, Bác tham gia phong trào của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Pháp. Bác tổ chức nhóm Việt kiều. Bác đã gặp Charles Longuet, chủ bút tờ báo “Dân chúng” là cháu ngoại của Các Mác. Ông này đã giúp đỡ Bác viết báo. Lúc đầu Bác viết 5 dòng rồi sửa hết, rồi viết lại. Bài báo đầu tiên của Bác là bài báo năm dòng đăng ở tờ “Đời sống thợ thuyền” năm 1917. Sau đó Bác viết cho nhiều tờ báo ở Pháp như tờ “Nhân đạo” và “Dân chúng”... Thời gian đó Bác ở nhà số 9 ngõ hẻm Compoint. Nhà văn Hồng Hà đi Paris làm phim về Bác cung cấp thêm nhiều tư liệu: Nhà số 9 Compoint tầng dưới là quán cà-phê, tầng trên Bác thuê ở. Bác làm nghề rửa ảnh. Nhà Bác kê vừa một cái giường, hai cái ghế, một cái bàn con. Trên bàn có cái chậu thau, trong thau có một xô nước. Khi viết, Bác phải đút thau và xô xuống gầm giường. Hằng ngày, Bác nấu một nồi cơm (gọi là nồi nhưng thật ra nó là cái hộp bích-qui vuông thấp). Khi thổi cơm, Bác hấp vào đó một con cá khô, Bác ăn một nửa, còn một nửa lấy giấy báo gói mang đi, làm việc xong, Bác mang ra ăn nốt suất cơm còn lại. Bác làm việc rất khẩn trương để có đủ tiền sống, để có nhiều thời gian vào thư viện đọc sách. Bác còn tranh thủ đi nghe người ta giảng thuyết để học tập.

Khi Cách mạng tháng Mười Nga thành công. Bác rất vui mừng, phấn khởi. Bác vào Đảng xã hội Pháp. Tháng 3-1919, Quốc  tế thứ ba (tức quốc tế Cộng sản) thành lập, Lênin có đọc bản luận cương về cách mạng thuộc địa. Khi tiếp thu bản luận cương ấy, Bác đã nói: “Luận cương của Lênin đã làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi sáng tỏ, tin tưởng biết bao. Tôi vui mừng phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng, mà tôi nói to, như đang nói trước quần chúng đông đảo. Hỡi đồng bào bị đọa đày, đây là cái cần thiết cho chúng ta!”. Bác tiếp thu điều này rất sâu sắc. Báo Gramma Cuba đã viết: “Nhân loại tiến bộ trên thế giới đời đời mắc nợ nhân dân Việt Nam”. Dư luận nhiều nước trên thế giới nêu rõ: Các Mác đề ra chủ nghĩa xã hội khoa học, Lênin là người tổ chức thực hiện. Lênin là người đề ra cách mạng ở các nước thuộc địa, Hồ Chí Minh là người tổ chức thực hiện và rút những kinh nghiệm quý báu.

Vâng lời Bác dạy:

Không có việc gì khó,

Chỉ sợ lòng không bền.

Đào núi và lấp biển,

Quyết chí ắt làm nên.

Đoàn Minh Tuấn