Bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng

Thứ năm, 11/12/2025 06:20

Ngày 10-12, Quốc hội đã thông qua dự thảo Luật An ninh mạng gồm 8 Chương và 45 Điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2026; tạo hành lang pháp lý vững chắc, nâng cao năng lực bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng và thúc đẩy phát triển kinh tế số bền vững.


Dự thảo Luật được xây dựng trên cơ sở hợp nhất Luật An ninh mạng năm 2018 và Luật An toàn thông tin mạng năm 2015. Việc hợp nhất này nhằm đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật, khắc phục những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành, đồng thời thực hiện tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW về tinh gọn bộ máy, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Nguyên tắc xuyên suốt là "một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì, chịu trách nhiệm chính", đảm bảo phân công, phân cấp rõ ràng giữa các Bộ, ngành, tránh chồng chéo chức năng nhiệm vụ.

Ngày 10-12 Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật An ninh mạng.
Ngày 10-12 Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật An ninh mạng.

Luật có một số điểm mới nổi bật. Theo đó, Luật quy định rõ Bộ Công an chịu trách nhiệm trước Chính phủ chủ trì, phối hợp thực hiện quản lý nhà nước về an ninh mạng. Bộ Quốc phòng chịu trách nhiệm quản lý hệ thống thông tin quân sự; Ban Cơ yếu Chính phủ quản lý hệ thống thông tin cơ yếu và mật mã. Quy định này nhằm giải quyết tình trạng chồng chéo, đảm bảo sự chỉ huy, điều phối thống nhất trong bối cảnh các mối đe dọa an ninh mạng mang tính toàn cầu.

Mở rộng phạm vi và đối tượng bảo vệ, Luật là bổ sung quy định cụ thể về bảo vệ nhóm người yếu thế trên không gian mạng. Bên cạnh trẻ em, Luật mở rộng bảo vệ đối với người cao tuổi và người gặp khó khăn về nhận thức. Đối với trẻ em, Điều 16 quy định chi tiết về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và gia đình trong việc ngăn chặn thông tin xâm hại, thiết lập công cụ kỹ thuật hỗ trợ và xử lý nghiêm các hành vi xâm hại trẻ em trên không gian mạng.

Luật cũng nội luật hóa cam kết quốc tế và tăng cường hợp tác an ninh mạng. Cụ thể, Luật đã rà soát và nội luật hóa các quy định của Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm mạng (Công ước Hà Nội) mà Việt Nam là thành viên, tạo hành lang pháp lý cho việc chia sẻ thông tin, phối hợp điều tra và phòng chống tội phạm mạng xuyên biên giới.

Để đảm bảo nguồn lực thực thi, Luật quy định mức tối thiểu kinh phí dành cho bảo vệ an ninh mạng. Cụ thể, cơ quan, tổ chức sử dụng ngân sách nhà nước phải bố trí tối thiểu 15% tổng kinh phí thực hiện chương trình, đề án, dự án đầu tư chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin cho an ninh mạng. Đây là sự nâng mức so với các đề xuất trước đó (từ 10% lên 15%) để phù hợp với yêu cầu thực tiễn và tính chất sống còn của an ninh mạng trong kỷ nguyên số.

Về bảo đảm an ninh dữ liệu, Luật dành riêng Điều 26 quy định về "Bảo đảm an ninh dữ liệu", bao gồm xây dựng chính sách, áp dụng biện pháp kỹ thuật, sử dụng mật mã và kiểm soát dữ liệu xuyên biên giới. Khái niệm "An ninh dữ liệu" cũng được định nghĩa rõ ràng tại Điều 2, nhấn mạnh vào bảo đảm chất lượng và bảo vệ dữ liệu phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.

Hệ thống thông tin được phân loại theo 5 cấp độ căn cứ vào mức độ tổn hại tới an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội nếu bị sự cố. Quy định này giúp xác định trọng tâm bảo vệ và áp dụng các biện pháp quản lý tương xứng.

Cũng trong ngày 10-12, Quốc hội thông qua dự thảo Luật Bảo vệ bí mật nhà nước (sửa đổi). Trên cơ sở tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội và yêu cầu thực tiễn, Luật có nhiều điểm mới quan trọng về phạm vi, công nghệ và cải cách hành chính. Một điểm mới đáng chú ý là Luật bổ sung quy định nghiêm cấm hành vi sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) hoặc công nghệ mới để xâm phạm bí mật nhà nước. Luật cũng quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong việc triển khai, sử dụng hệ thống AI hoặc công nghệ mới trong hoạt động bảo vệ bí mật nhà nước. Luật cũng đẩy mạnh phân cấp, phân quyền và cắt giảm thủ tục hành chính, khi bãi bỏ quy định ủy quyền xác định bí mật nhà nước để đơn giản hóa thủ tục; người đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức có trách nhiệm trực tiếp xác định bí mật nhà nước; phân cấp mạnh mẽ thẩm quyền cho phép sao, chụp và tiêu hủy tài liệu bí mật nhà nước, trao quyền quyết định tiêu hủy tài liệu cho người đứng đầu cơ quan, tổ chức (đối với trường hợp không cần lưu giữ) và quy định cụ thể hội đồng tiêu hủy. Luật bổ sung, làm rõ các hành vi bị nghiêm cấm liên quan đến việc thu thập, trao đổi, cung cấp, chuyển giao bí mật nhà nước trái pháp luật với bên thứ ba mà không có thỏa thuận bảo mật.

Việt Đức