Bửu Chỉ - họa sĩ tài danh xứ Huế

Thứ tư, 17/05/2017 10:48

(Cadn.com.vn) - Chủ tịch nước vừa có Quyết định tặng Giải thưởng Nhà nước về VHNT cho họa sĩ Bửu Chỉ với 2 bộ tranh (14 tác phẩm) gồm Tiếng thét từ lòng đất và Khát vọng hòa bình. Giới hội họa xem anh là họa sĩ tài danh của xứ Huế. Ở Huế, tên tuổi của Bửu Chỉ gắn với tranh vẽ về đề tài chiến tranh và hòa bình. Anh không chỉ vẽ tranh mà còn dấn thân quyết liệt cho phong trào phản chiến, yêu nước ở Huế và các đô thị khác ở miền Nam. Bửu Chỉ thể hiện khí phách phong trào đấu tranh đô thị qua tranh. Tranh của anh là lời tố cáo đanh thép về tội ác của kẻ thù, là lời kêu gọi thống thiết thôi thúc tuổi trẻ dấn thân chống kẻ thù, xuất hiện sừng sững như một tượng đài của phong trào đô thị.

Trong phong trào đấu tranh ở đô thị Huế cũng như các thành thị miền Nam những năm 1970 - 1975 không ai là không biết Bửu Chỉ. Một họa sĩ với những bức tranh bút sắt, mực đen, nhưng tranh của anh có mặt hầu hết trên các ấn phẩm của phong trào đô thị trên cả nước, các tổ chức tiến bộ thời ấy, từ trang bìa đến phụ bản. Cùng hoạt động trong phong trào sinh viên đô thị Huế với họa sĩ Bửu Chỉ, nhà thơ Võ Quê cảm nhận, ngọn bút sắt của anh ngời ánh lửa xuống đường và cả trong ngục tù khắc nghiệt. Sự trung thực, dũng cảm, tình yêu nước nồng nàn của anh; đôi bàn tay tài hoa của anh đã từng làm cho kẻ thù khiếp sợ: “Tranh anh đỏ máu đêm tù/ Sợ tranh anh chúng trả thù tay anh/ Dù cho điện, nước cực hình/ Quên đau anh vẫn vẽ tranh chống thù”.

Một tác phẩm của họa sĩ Bửu Chỉ.

Họa sĩ Bửu Chỉ sinh ngày 8-10-1948, trên mảnh đất Huế thân yêu. Anh đã có một quá khứ hào hùng trong những năm tháng đấu tranh giành độc lập thống nhất đất nước. Từng là Tổng Thư ký của Hội Sinh viên Sáng tác Huế, anh đã bị chế độ cũ bắt đến 3 lần và lần cuối cùng đã bị giam 2 năm ở khám Chí Hòa cho đến tận ngày 30-4-1975 mới được giải thoát. Trong nhà tù anh đã bị cảnh sát chế độ cũ đánh đập tàn nhẫn, đặc biệt vì tức giận họ đã đánh vào hai bàn tay của họa sĩ vì hai bàn tay này đã dám vẽ những bức tranh tố cáo chiến tranh phi nghĩa mà chế độ cũ hiếu chiến miền Nam không muốn nhìn thấy. Không chịu khuất phục, trong chốn lao tù, tranh của anh vẫn được vẽ, trong khoảng thời gian đó, thường được các báo chí nước ngoài in và gây một dư luận rộng rãi, được các phong trào phản chiến thế giới ở Mỹ, Nhật, Thái Lan, Hàn Quốc, Châu Âu nhiều khi lấy làm biểu trưng. Đặc biệt là các phong trào sinh viên yêu hòa bình của thế giới.

Từ ngày đất nước thống nhất, là người của phong trào, anh đã sống và hòa nhập vào mạch sống chung của dân tộc. Lần lượt anh đã tham gia đảm nhận các vai trò lãnh đạo Hội VHNT TT-Huế, rồi Hội VHNT Bình Trị Thiên, Hội Mỹ thuật Việt Nam... Anh đã được Hội Mỹ thuật Việt Nam trao tặng Huy chương Vì Sự nghiệp Mỹ thuật Việt Nam do sự nỗ lực sáng tạo nghệ thuật của anh trước và sau năm 1975.

Sung sức trong lao động mỹ thuật, tư duy về không gian, thời gian, về thân phận con người trầm luân, khổ đau, hạnh phúc… trong những năm 80, 90 anh đã vẽ rất nhiều tranh sơn dầu với bút pháp lạ, thể hiện sự tìm tòi cái mới trong hình thức để chuyển tải tinh tế nội dung giàu tính nhân văn trong từng tác phẩm. Dòng tranh bút sắt của anh cũng được tiếp tục thể hiện những nội dung sâu sắc về cái thiện, cái ác cũng như mạnh mẽ lên án mọi sự giả hình trong xã hội mà tiêu biểu là chùm tranh “Cáo” của anh với dòng chú thích: “Bọn cáo có một thứ đạo đức riêng. Lấy sự lưu manh làm thái độ sống. Sự quỷ quyệt làm thái độ ứng xử với đời. Sự đa nghi và gian ác làm lợi khí tự vệ. Và chúng đùa giỡn với lẽ sống chết của mọi người trên hai tay...” (theo nhà thơ Võ Quê).

Quốc Việt