CIA và các viên tướng ngụy quyền Sài Gòn

Thứ hai, 22/02/2010 00:00

<<CIA và các viên tướng ngụy quyền Sài Gòn (2)

Kỳ 1: CIA và cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam

(Cadn.com.vn) - (TTXVN): Ông Trần Bình Nam, học giả người Việt Nam ở nước ngoài, vừa hoàn tất việc tóm tắt và phổ biến những nội dung chính của tài liệu “CIA and the Generals: Covert Support to military government in South Vietnam” mà Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) đã giải mật vào ngày 19-2-2009. Tài liệu dày 243 trang này do Thomas L. Ahern, Jr, nhân viên CIA từng làm việc tại Sài Gòn từ năm 1963 – đầu năm 1965 đúc kết từ những tài liệu mật của CIA.

Nhân tiến tới kỷ niệm 35 năm ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, báo Công an TP Đà Nẵng xin trích giới thiệu bản dịch tóm tắt tài liệu nói trên của ông Trần Bình Nam để bạn đọc biết được phần nào những hoạt động đen tối của CIA trong cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ tại Việt Nam.

Chế độ Mỹ-Diệm

Sau khi người Pháp thất bại tại Điện Biên Phủ, người Mỹ thay thế dần dần. Người Mỹ ủng hộ ông Ngô Đình Diệm củng cố miền Nam Việt Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào, qua trung gian là ông Ngô Đình Nhu, em ruột ông Diệm. Cùng với các lực lượng vũ trang của ông Diệm, CIA phát động phong trào tự vệ để bảo vệ nông thôn. Đây là kinh nghiệm chống nổi dậy đầu tiên của CIA tại Việt Nam.

Chương trình của ông Diệm là tiêu diệt các thành phần cộng sản còn lại ở miền Nam trước khi rút ra Bắc theo Hiệp định Genève. Nhưng chương trình chống Cộng quá nặng tay và thi hành một cách bừa bãi đụng chạm đến các thành phần không cộng sản trong quần chúng như thành phần thiểu số và tôn giáo khác. Chính quyền Diệm không có chương trình nâng cao đời sống nông thôn để thu phục lòng dân nên mất dần sự ủng hộ của quần chúng.

Cuối năm 1959, Hà Nội đưa người vào miền Nam khiến cho sự kiểm soát của ông Diệm tại nông thôn ngày càng lỏng dần. Để cứu chế độ Diệm, Mỹ tăng cường viện trợ quân sự và kinh tế. Đầu năm 1963, cao trào chống Diệm của Phật giáo bùng nổ tại miền Trung. Khi sự đàn áp phong trào Phật giáo và kiểm soát nông thôn của chính quyền Diệm ngày càng sa sút, vào tháng 8-1963, Mỹ quyết định hạ bệ ông Diệm theo đề nghị của Đại sứ Henry Cabot Lodge bằng một cuộc đảo chính.

Sau khi quân đảo chính chiếm bộ Tổng Tham mưu và giết đại tá Lê Quang Tung - người làm việc cận kề với CIA và là chỉ huy trưởng Lực lượng Đặc biệt, các tướng đảo chính kêu gọi anh em Diệm đầu hàng. Ông Diệm và ông Nhu lợi dụng trời tối rời Dinh Độc lập và sau đó bị bắt tại một nhà thờ Công giáo ở Chợ Lớn. Các sĩ quan của Tướng Dương Văn Minh, người lãnh đạo cuộc đảo chính đã bắn chết ông Diệm và Nhu trên một xe thiết giáp, mặc dù trước Đại sứ Lodge có hứa giúp hai ông an toàn rời khỏi Việt Nam.

Sau đảo chính, các tướng lĩnh yêu cầu CIA cố vấn trong việc cai trị quốc gia. Tuy nhiên CIA – theo lệnh của Đại sứ Lodge - không đưa ra một chương trình gì ngoài việc yêu cầu các tướng đảo chính tiếp tục con đường chống Cộng và để người Mỹ tham gia công cuộc đó một cách tích cực hơn. Thật ra, tình hình miền Nam suy đồi không phải chỉ do ông Diệm, mà còn do nhiều nguyên nhân khác như: một bộ máy hành chính và một quân đội lỗi thời do người Pháp để lại; một chính sách cai trị dân với tác phong huynh trưởng và một nền móng chính trị chưa thành nếp, trong đó các tôn giáo, các thành phần thiểu số và các tầng lớp quần chúng trình độ khác nhau chống lại nhau. Sĩ quan trong quân đội cũng hiềm khích nhau vì tôn giáo. Và trầm trọng nhất là chế độ tư hữu ruộng đất phong kiến lỗi thời.

Chế độ của các ông tướng thay thế ông Diệm tuy ít độc tài hơn nhưng không có chương trình gì để đẩy lui chương trình kiểm soát đất và giành dân của người cộng sản. Cuối năm 1964, cộng sản nắm thế thượng phong và chính quyền Sài Gòn chỉ chờ sụp đổ. 

Mỹ tháo chạy

Năm 1966, tình hình miền Nam không khả quan. Tổn thất của quân đội Mỹ tăng cao khiến cho Quốc hội và dân chúng Mỹ bắt đầu khó chịu vì cuộc chiến dai dẳng. Trước bối cảnh này, Tổng thống Johnson bắt đầu tìm đường rút lui.

Tình hình chính trị tạm ổn định sau khi Tướng Nguyễn Văn Thiệu đắc cử Tổng thống vào tháng 9-1967. Tháng 2-1968, Cộng sản mở cuộc tổng tấn công Mậu Thân. Cuộc tấn công tạo một tâm lý bi quan đối với dân chúng và báo giới Mỹ, không khí chống chiến tranh tại nước này dâng cao. Tổng thống Johnson buộc phải tuyên bố không ra ứng cử Tổng thống lần thứ hai vào cuối tháng 3-1968 và đề nghị thương thuyết với Hà Nội. Tháng 5-1968, khi các cuộc tiếp xúc chính thức giữa Washington và Hà Nội bắt đầu tại Paris (Pháp), cộng sản mở cuộc tấn công Mậu Thân 2.

Xe tăng của quân giải phóng húc đổ dinh độc lập trong ngày 30-4-1975, đánh dấu thất bại hoàn toàn của Mỹ. Ảnh: Tư liệu 

Ngay sau khi đắc cử, Tổng thống Nixon bắt đầu “Chương trình Việt Nam hóa chiến tranh”. Giữa năm 1969, Nixon tuyên bố đợt rút quân đầu tiên. Mùa Xuân năm 1972, cộng sản miền Bắc mở cuộc đại tấn công miền Nam. Tháng 10-1972, Hà Nội tuyên bố đồng ý về một văn bản ngừng bắn và chấm dứt chiến tranh. Tuy nhiên, sau khi tái đắc cử nhiệm kỳ 2 một cách áp đảo, Tổng thống Nixon đòi thay đổi vài điều khoản trong bản hiệp định dự thảo.

Hà Nội phản ứng bằng cách rút khỏi cuộc hòa đàm. Và sau đó đồng ý trở lại hội nghị và ký Hiệp định Paris vào tháng 1-1973, trong đó không buộc quân đội miền Bắc rút khỏi miền Nam. Sau đó Nixon dính vào vụ “Watergate” phải từ chức vào tháng 8-1974. Phó Tổng thống Gerald Ford lên thay.

Ngày 10-3-1975, quân Giải phóng mở màn cuộc tổng tấn công tại cao nguyên miền Trung, và kết thúc ngày 30-4-1975 khi xe tăng quân Giải phóng tiến vào Sài Gòn và trực thăng của Mỹ rời mái nhà tòa đại sứ trước khi trời sáng.

Vai trò của CIA

Đầu tiên, Đại sứ Lodge cấm CIA liên lạc mật thiết với các Tướng lĩnh Sài Gòn để duy trì tính độc lập của chính quyền miền Nam. Nhưng khi tình hình bất ổn, ông Lodge cho phép CIA làm việc chặt chẽ với các Tướng để theo dõi và điều chỉnh tình hình đảo chính. Năm 1966, CIA dùng ảnh hưởng của mình để thuyết phục các Tướng hưởng ứng chính sách của chính quyền Johnson lúc đó đang tìm cách liên lạc với các thành phần ôn hòa của Mặt trận Giải phóng Miền Nam.

Trong cuộc bầu cử tổng thống tháng 9-1967, CIA được lệnh ủng hộ liên minh Tướng Thiệu - Tướng Kỳ, nhưng cần tỏ vẻ trung lập và dùng ảnh hưởng tạo ra một cuộc bầu cử dân chủ. Sau khi thắng cử, ông Thiệu loại hết các người thân Tướng Kỳ, CIA lại phải vận động và tuyển mộ người miền Nam. Sau cuộc tấn công Mậu Thân, CIA triển khai một kế hoạch thành lập những đảng chính trị có căn bản quần chúng theo mô thức của Mỹ, nhưng ông Thiệu chưa sẵn sàng xây dựng một nền tảng dân chủ cho miền Nam nên nỗ lực này không đưa đến kết quả nào. Đầu năm 1970, CIA đã có kế hoạch giúp ông Thiệu tái đắc cử nhiệm kỳ 2 dự kiến sẽ diễn ra vào cuối năm 1971 nhưng vẫn với cách thức nhằm tạo một hình ảnh bầu cử dân chủ.

 Khi cuộc tấn công Mậu Thân lắng xuống, hòa đàm Paris bắt đầu, công tác chính yếu của CIA là vận động để ông Thiệu chấp thuận hướng thương thuyết của Mỹ tại Paris. Trong công tác này CIA vận dụng nhân sự đã gài trong chính quyền ông Thiệu để gây áp lực với ông Thiệu một cách hữu hiệu. Sau khi ký hiệp định Paris, nhiệm vụ của CIA là thúc đẩy ông Thiệu thi hành hiệp định.

Vào cuối năm 1974, CIA biết Hà Nội sắp mở cuộc tổng tấn công vào đầu năm 1975, nhưng không có kế hoạch gì để ngăn chặn. Sau khi ông Thiệu ra lệnh rút quân khỏi cao nguyên miền Trung Việt Nam tạo ra sự hỗn loạn, CIA biết rằng khó có đủ thời giờ di tản ra khỏi Việt Nam nên đã thi hành kế hoạch trì hoãn bằng cách giả vờ thương thuyết với Hà Nội để có thời gian rút lui. Đó là công tác cuối cùng của CIA trong cuộc chiến Việt Nam.

(còn nữa)