Hai mốc son lịch sử ở Đà Nẵng
Cách đây 50 năm vào những ngày cuối tháng 3, quân, dân ta ồ ạt tấn công chiếm lĩnh các mục tiêu của địch và giải phóng hoàn toàn thành phố Đà Nẵng, một cứ điểm liên hợp quân sự quan trọng thứ hai ở miền Nam. Cũng trong tháng 3 trước đó 9 năm (1966), Đà Nẵng đã dậy sóng phong trào đấu tranh cách mạng do biết khoét sâu vào sự mâu thuẫn, tranh giành quyền lực của đối phương. Hai sự kiện chính trị diễn ra trong bối cảnh khác nhau nhưng chung một hoài bão, khát vọng lớn lao, quyết giành độc lập, thống nhất non sông.
+ Bài 1: Cuộc nổi dậy “ ba nhất” trong lòng địch
Tháng 10-1965, Nguyễn Chánh Thi (1923) được Tổng thống Việt Nam cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu thăng quân hàm Trung tướng và giao giữ chức Tư lệnh Vùng I chiến thuật (Quân đoàn I). Với mưu mô không chỉ muốn biến miền Trung thành lãnh địa riêng của mình, Nguyễn Chánh Thi còn nuôi mộng hất đổ Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ và ý đồ đó bị lật tẩy nên Nguyễn Chánh Thi được báo chí nước ngoài lúc bấy giờ mệnh danh là “chuyên gia đảo chính”. Để loại bỏ mối nguy trước mắt, ngày 10-3-1966, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu yêu cầu Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ ký quyết định cách chức Tư lệnh Quân đoàn I đối với Nguyễn Chánh Thi, lý do “không ổn định được tình hình miền Trung vì để xảy ra nhiều cuộc biểu tình chống Mỹ và chế độ Việt Nam cộng hoà”. Trung tướng Nguyễn Hữu Có - Phó Thủ tướng, kiêm Tổng trưởng Quốc phòng ra lệnh bắt Nguyễn Chánh Thi tại phi trường Đà Nẵng đưa về Sài Gòn giam lỏng. Hay tin Nguyễn Chánh Thi bị bắt giữ, khoảng 17 giờ ngày 11-3-1966, chừng hơn 300 sĩ quan, binh lính thuộc hạ cấp phe phái thân cận của Nguyễn Chánh Thi ở các khu căn cứ quân sự miền Trung kéo về Hội trường Trưng Vương tổ chức cuộc mít-tinh, yêu cầu Thiệu - Kỳ phải thả ngay và phục hồi lại chức tước cho Nguyễn Chánh Thi, đồng thời thành lập “Ủy ban quân dân Vùng I chiến thuật” nhằm tạo ra áp lực đối với chính quyền Sài Gòn, buộc Thiệu - Kỳ phải nhượng bộ. Tình hình chính trị tại Đà Nẵng bắt đầu có nhiều chuyển biến phức tạp.
Lợi dụng tình thế này, các tầng lớp nhân dân Đà Nẵng như học sinh, công nhân, tăng ni, phật tử, tiểu thương, bà con lao động... rầm rộ xuống đường đấu tranh đình công, bãi khoá, bãi thị. Chớp lấy thời cơ hiếm có và rất thuận lợi cho phong trào đấu tranh cách mạng này, Thành uỷ Đà Nẵng chỉ đạo cho lực lượng biệt động thành tổ chức cài cắm các cơ sở cách mạng của ta đã có sẵn trong nội thành tham gia ngay vào các đoàn biểu tình cũng như một số tổ chức ly khai của địch để từng bước chèo lái phong trào xuống đường đấu tranh tự phát chuyển sang hướng đấu tranh chính trị, chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai Thiệu - Kỳ. Ngày 15-3-1966, một cuộc mít-tinh hơn 10 ngàn người tiếp tục được diễn ra ở công viên Diên Hồng. Tại diễn đàn này đã có nhiều đại diện cho các tầng lớp xã hội lên sân khấu công khai tố cáo tội ác của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Đến ngày 18-3-1966, Tổng Đoàn Học sinh Đà Nẵng được thành lập. Hay tin tổ chức này ra đời, ngày hôm sau, 19-3-1966 Tổng Hội Sinh viên Huế nhanh chóng cử một số đại diện vào tiếp sức với Tổng Đội Học sinh Đà Nẵng, tập hợp, lấy Hội trường Trưng Vương tổ chức cuộc hội thảo với chủ đề: “Bán nước hay cứu nước?”. “Ủy ban quân dân Vùng I chiến thuật” do đã có một số cơ sở bí mật của ta được trà trộn vào nên bắt đầu đi theo hướng “Lực lượng nhân dân tranh thủ cách mạng Đà Nẵng”. Ngày 20-3-1966, lực lượng này huy động hơn 15 ngàn người tập trung tại công viên Diên Hồng để công bố lập trường và mục tiêu đấu tranh của lực lượng, tố cáo việc quân đội Mỹ xâm lược Việt Nam, đồng thời tuyên bố rủ bỏ tất các các băng rôn, khẩu hiệu ủng hộ Trung tướng Nguyễn Chánh Thi đã có trước đó. Ngày 24-3-1966, nhiều tầng lớp, chủ công là lực lượng thanh niên ùn ùn kéo đến chiếm Đài phát thanh Đà Nẵng, ngày 28-3-1966, Đài Phát thanh Hội An của địch cũng bị quần chúng chiếm giữ, dập tắt được tiếng nói của chúng ở hai địa phương. Ngày 30-3-1966, hơn 10 ngàn quần chúng tuần hành, kèm theo hàng trăm ô-tô, nghiệp đoàn xe lambro chợ Cồn huy động tất cả phương tiện sẵn có ầm ầm xuống đường, căng biểu ngữ chống Mỹ, đả đảo Thiệu - Kỳ. Ngày 1-4-1966, các tầng lớp nhân dân thành phố và một số xã vùng ven của các huyện Hoà Vang, Điện Bàn, kể cả một số binh lính ngụy kéo về tụ tập ở trung tâm thành phố chừng 25 ngàn người để giỗ tổ Hùng Vương và hô vang các khẩu hiệu đuổi quân Mỹ cút về nước, phản đối chính quyền Sài Gòn, bộ máy đàn áp của chính quyền Thiệu - Kỳ tại Đà Nẵng gần như bị tê liệt...
Thấy Đà Nẵng có nguy cơ thất thủ, ngày 4-4-1966, Thiệu-Kỳ liền điều động 2 tiểu đoàn thủy quân lục chiến, 1 tiểu đoàn cảnh sát dã chiến, lính dù từ Sài Gòn ra Đà Nẵng dưới sự chỉ huy trực tiếp của Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan. Song, những ngày tiếp theo vẫn liên tục diễn ra các cuộc biểu tình của hàng ngàn công nhân bốc vác Cảng Đà Nẵng, ngư dân đánh bắt cá..., nhưng chúng vẫn chưa dám ra tay đàn áp. Đến ngày 19-4-1966 trở đi thì sự chỉ đạo phong trào lâm vào tình thế lúng túng, nhất là việc phát triển lực lượng đấu tranh bị chững lại, phong trào bắt đầu lắng xuống dần. Nhân cơ hội này, Thiệu - Kỳ gấp gáp điều tiếp 2 tiểu đoàn thủy quân lục chiến, tăng cường máy bay, xe bọc thép M113 và các phương tiện chiến tranh hiện đại cho tướng Nguyễn Ngọc Loan. Đến ngày 25-5-1966, tướng Nguyễn Ngọc Loan xua quân tái chiếm lại các vị trí then chốt, trong đó có Đài Phát thanh. Đà Nẵng hoàn toàn nằm trong tầm kiểm soát của địch. Ít ngày sau, Thiệu - Kỳ đưa Thiếu tướng Huỳnh Văn Cao ra làm Tư lệnh Quân đoàn I thay cho Trung tướng Nguyễn Chánh Thi. Sau sự kiện này, cái nghiệp cầm quân của Nguyễn Chánh Thi coi như đã kết thúc.

Đây là cuộc đấu tranh có quy mô lớn nhất, có nhiều thành phần tham gia nhất và diễn ra nhiều ngày nhất trong phong trào đấu tranh tại các thành thị ở miền Nam trong thời kỳ “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ. Bí thư Thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Lê Duẩn lúc đó đã có nhận xét: “Cuộc nổi dậy của đồng bào Đà Nẵng chống Thiệu - Kỳ từ tháng 3 đến tháng 5-1966 tuy không đem lại thắng lợi nhưng đã cho ta một bài học bổ ích về lợi dụng mâu thuẫn nội bộ địch. Lúc đầu, cuộc nổi đậy đó không phải do ta chủ động mà nhân cơ hội nội bộ địch chống đối lẫn nhau, ta đã biết tập hợp, phát động quần chúng đứng lên làm chủ thành phố...”.
(còn nữa) Thái Mỹ