Huế đã nuôi tôi thành thi sĩ

Thứ sáu, 22/01/2016 10:12

(Cadn.com.vn) - 1.Hồi nhỏ học tiểu học ở làng Thượng Luật, tôi đã tập viết báo, làm thơ. Năm 1964, nghe chương trình Tiếng thơ của Đài tiếng nói Việt Nam, nghệ sĩ Kim Cúc ngâm bài thơ Sao chiến thắng của Chế Lan Viên viết về chiến công của  quân dân Quảng Bình bắn máy bay Mỹ, tôi đã xúc động làm bài thơ Nghe sao chiến thắng với đề từ "Kính tặng nhà thơ Chế Lan Viên". Làm suốt đêm, xong gấp lại nhét vào mái tranh nhà, rồi ngủ quên. Sáng anh trai tôi là Ngô Tấn Ninh, một ngư dân mọt sách đọc đông tây kim cổ, đi biển về, ăn sáng, đi tìm tăm, phát hiện ra bài thơ. Anh đọc rồi bảo: "Chưa phải thơ đâu, nhưng  khá đấy". Đi đại học Thương mại ở Hà Nội 4 năm tôi cũng làm nhiều thơ chép trong tập vở học trò, nhưng gửi các báo chẳng ai đăng cả. 4 năm bộ đội chiến đấu ở miền Đông Nam Bộ tôi làm nhiều thơ nhưng chỉ đăng ở  bản tin của Sư đoàn 7, bản tin Trung đoàn  14, đơn vị của tôi, để  phục vụ  bộ đội chiến đấu. Tôi được đăng bài thơ đầu tiên trên báo Văn nghệ Giải phóng là bài Ở rừng nhớ biển đầu năm 1975. Ra  quân, tôi về lại Trường Đại học Thương mại. Nhà trường thuyết phục tôi ở lại trường làm giảng viên đại học nhưng tôi nằng nặc xin về Huế. Cuối năm 1976, tôi về Huế. Ở Huế 39 năm, tôi đã xuất bản 14 tập thơ, 12 tập văn xuôi và một bộ tuyển Ngô Minh tác phẩm gồm 5 tập,  được bạn đọc mến mộ, trong đó có 3 tập thơ được tặng thưởng. 2 lần được giải thưởng của Ủy ban toàn quốc các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam, giải thưởng Bông Sen trắng (Bình Trị Thiên), 4 lần được Giải thưởng Cố Đô. Có thể nói, Huế đã nuôi tôi thành thi sĩ!

Gặp gỡ giữa các văn nghệ sĩ Huế với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn
(nhà thơ Ngô Minh, thứ 3 từ trái sang). 

2. Về  với Huế, tôi, khoái nhất được gặp các nhà thơ, nhà văn từ thời học sinh ở cấp 3 Lệ Thủy, tôi đã đọc, đã yêu  họ như Thanh Hải, Nguyễn Khoa Điềm, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Xuân Hoàng, Hải Bằng,  nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Nguyễn Khắc Phê, Hà Khánh Linh...Tôi thuộc Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm, tôi mê Biển và bơ của Xuân Hoàng. Thuộc Mồ anh hoa nở của Thanh Hải, Cồn Cỏ của Hải Bằng, tôi đọc Thúy của Hà Khánh Linh...Thuở nhỏ, tôi quan niệm nhà thơ là những người ma thuật. Chỉ một  dúm chữ mà họ làm ra những bài thơ lay động lòng người. Nên hồi học cấp 2 ở làng, tôi đã  bỏ học hai ngày để chạy theo xem mặt đoàn nhà thơ  Anh Thơ, Xuân Hoàng, Nguyễn Văn Dinh...về thăm Ngư Thủy quê tôi đánh Mỹ giỏi. Riêng thơ Thanh Hải tôi thuộc rất nhiều vì thơ anh được đưa vào sách giáo khoa ở miền Bắc. Anh có bài thơ ít người thuộc, nhưng tôi lại rất thích, vì đó là bài thơ viết tặng Quảng Bình quê tôi:

Quảng Bình ơi chín năm xưa đánh giặc

Vui khổ cùng chung mảnh đất miền Trung

Xa cách mười năm mười năm thầm nhắc

Lòng hẹn lòng qua đôi bến Hiền Lương...

Những câu thơ đó ra đời khi tôi đang còn học tiểu học, đọc được và chép vào sổ tay từ một trang báo hiếm hoi ở làng cát nghèo hẻo lánh do một người từ Đồng Hới mang về. Lớp nhà văn tiếng tăm lẫy lừng này đã châm ngòi nổ thơ trong tôi bùng lên mạnh mẽ hơn khi tôi về sinh hoạt với các anh trong Hội Văn nghệ Thừa Thiên Huế. Tôi đặc biệt thích thú khi về Huế gặp những người bạn cùng lứa, cùng học trường huyện năm xưa làm thơ như Lâm Thị Mỹ Dạ, Hoàng Vũ Thuật, Hải Kỳ, Lê Đình Ty, Đỗ Hoàng, Lê Thị Mây, Mai Văn Hoan...Các bạn đã  có thơ in báo từ đầu những năm 70 của thế kỷ trước. Ở chiến trường miền Đông Nam Bộ cuối năm 1973, tôi ứa nước mắt khi giữa đêm rừng Tây Ninh, nằm võng nghe Đài tiếng nói Việt Nam ngâm bài thơ Đêm làng đất làng nước của Hải Kỳ. Riêng Mỹ Dạ được giải nhất cuộc thi thơ Báo Văn nghê  năm 1973, khi tôi chưa có bài thơ nào được đăng báo. Hồi Bình Trị Thiên đó mấy đứa đều ở Huế, ngày nào cũng  ríu rít bên nhau, nghèo nhưng lúc nào cũng rượu thơ ngất ngưỡng. Có đêm mùa đông Huế chúng tôi lang thang bên sông Hương cùng các nàng thơ. Ở hiệu ảnh Phú Xuân của Công ty nhiếp ảnh trên đường Trần Hưng Đạo, đêm khuya, nhà thơ-thợ ảnh bậc 7 Lê Đình Ty mở phòng chụp hàng trăm bức ảnh, rồi thức tráng phim, in ảnh tới một hai giờ sáng. Có đêm mưa Huế, Mai Văn Hoan dẫn chúng tôi đi xuống tận ngôi nhà có cây vú sữa vườn Thúy trên đường Huỳnh Thúc Kháng nhìn vào ô cửa có mái tóc và ngọn đèn đang thức. Rồi xuống Bao Vinh lơ ngơ bên những ngôi nhà cổ, không biết để làm gì. Chúng mình lơ ngơ như thế suốt mùa đông, bên nhau trong mưa dầm, mang thơ đến những căn phòng bé nhỏ, nơi ánh đèn không đủ sáng để nhận ra nét gầy guộc bạn bè, chỉ những nụ cười thoáng hiện trên môi góp lửa cho thơ nóng bỏng...

3. Huế với tôi là những đêm chơi núi Ngự Bình, những ngày rong  ruổi  làng Chuồn, say với cố họa sĩ, nhà điêu khắc Đỗ Toàn. Rồi uống rượu với nhà văn-võ sư Nguyễn Văn Dũng, nghe Bửu Chỉ hát, ăn những món ăn Hà Khánh Linh nấu, đi ăn giỗ vua Duy Tân, vua Hiệp Hòa; đi ăn chay trên chùa nhiều lần với bác sĩ Dương Đình Châu, nhà văn Nguyễn Đắc Xuân, Phan Thuận An, Bửu Ý..., nghe ca Huế xa lông mấy lần ở phủ Công chúa Ngọc Sương (nhà anh Phan Thuận An), đi đò  thả thơ, đổ xăm hường trên Sông Hương cùng Nguyễn Văn Dũng, Phan Thuận An... Chỉ một cái làng Tiên Nộn (Phú Mậu) của bác sĩ Nguyễn Tích Ý thôi đã làm tôi say ngất ngưỡng: ước mãi về ngủ vùi trên cỏ/thở đất làng Tiên Nộn nồng hăng/ngắm cải ngắm hoa xuống đò sang phố/sông ôm làng mà cứ ngỡ mình ôm...  Nhưng có lẽ sâu đậm nhất trong tôi là những năm tháng "ham chơi" với Hoàng Phủ Ngọc Tường". Tôi và Nguyễn Trọng Tạo hay gọi vui "Tường là nhà hiền triết cũ còn sót lại". Anh có kiến thức uyên bác về nhiều lĩnh vực triết học, văn học, văn hóa, lịch sử, địa lý... Đó không phải là kiến thức "tầm chương" mà đã nhập tâm thành máu thịt. Nhờ đó, anh soi sáng dưới nhiều góc độ khác nhau những vấn đề mà mình quan tâm. Từ đó chiết ra được những ý nghĩa mới, giá trị hình tượng mới thấm đẫm tình yêu và trí tuệ, thành thứ văn chương "tri âm tri kỷ" làm nhiều  thế hệ độc giả mê say. Với Hoàng Phủ Ngọc Tường, tôi là cậu học trò nhỏ, là người em, người bạn vong niên trong hơn ba chục năm qua. Gần gụi bên anh, nghe anh nói, nghe anh đọc, tôi ngày càng có thêm nhiều tri thức, kinh nghiệm sáng tác trên con đường văn chương thăm thẳm.

Tôi cũng đã nghiên cứu để công tác với VTV Huế làm nhiều kịch bản phim chân dung văn nghệ sĩ Thừa Thiên Huế như Tô Nhuận Vỹ, Đình Dũng, Kiều Oanh, Nguyễn Khắc Thạch, Lâm Thị Mỹ Dạ, Mai Văn Hoan... Qua việc xây lăng mộ vợ chồng nhà văn Phùng Quán, sử dụng quỹ Phùng Quán để tặng thưởng cho các em học sinh xuất sắc P. Thủy Dương (Hương Thủy), tôi đã trở thành người thân thiết với bà con Thủy Dương. Những lần như thế cho tôi hiểu thêm chiều sâu của sáng tạo nghệ thuật trên mảnh đất văn hóa trầm tích này. Tôi đã lớn lên trong văn chương với Huế từng ngày một như thế. Không gian Huế, sông Huế, núi Huế, vườn Huế, sương khói Huế, bạn bè Huế, những lăng tẩm cổ tích Huế... luôn tạo ra  từ trường để ăng-ten nhà thơ luôn bắt được sóng thơ, tạo ra những bài thơ xúc động.  39 năm, từng chút một, Huế đã ngấm vào máu thịt, tâm hồn tôi thành thơ văn lãng đãng.

Ngô Minh