Huyền tích cuối dòng Cu Đê

Thứ sáu, 28/02/2025 09:20

Giữa dòng sông Cu Đê (cách cầu Nam Ô về phía tây chừng gần 1km- PV) nổi lên một cái gò đất nằm lẻ loi bao đời nay có tên Cồn Miếu. Điều đặc biệt hơn cả, trên cái cồn mồ côi này có ngôi miếu cổ thờ cúng được dân làng Thủy Tú, Nam Ô gọi là miếu Bà, cũng có người bảo đó là miếu bà Chúa sông Cu Đê. Cái cồn đất rậm rạp cây cối ở giữa dòng sông này hiện nay là ranh giới giữa hai phường Hòa Hiệp Nam và Hòa Hiệp Bắc, quận Liên Chiểu, Đà Nẵng.

Ngôi miếu cổ trên cồn đất giữa dòng sông Cu Đê gắn với nhiều huyền tích bí ẩn.
Ngôi miếu cổ trên cồn đất giữa dòng sông Cu Đê gắn với nhiều huyền tích bí ẩn.

Sự hình thành ngôi miếu gắn với truyền thuyết về vùng đất Thủy Tú, Nam Ô hàng trăm năm qua.

Chuyện kể rằng, ngày xưa dân làng Thủy Tú, Nam Ô đều cư ngụ bên bờ nam sông Cu Đê, còn phía bờ bắc chưa có làng mạc, xóm thôn bởi dãy Hải Vân là những cánh rừng rậm hoang vu, cọp dữ thường xuyên xuống chân núi rình mò tìm kiếm thức ăn nên nơi đây không một bóng người. Dân làng Thủy Tú lúc bấy giờ chủ yếu sinh sống bằng nghề trồng trọt, quăng chài, thả lưới từ cửa biển về phía thượng nguồn, chăn thả trâu bò. Trải qua năm tháng, cư dân Thủy Tú càng thêm đông đúc, đất đai của làng bị thu hẹp, những thảm cỏ được thiên nhiên ban phát cằn cỗi dần nên bà con làng Thủy Tú phải qua phía bờ bắc canh tác, cắt cỏ mang về cho trâu, bò ăn. Những chiếc ghe nan là phương tiện duy nhất để chở người và phương tiện cày cuốc, gieo trồng qua, lại ở khúc sông này. Cái gò đất giữa sông ngập tràn bóng mát cũng là điểm ghe thuyền của người dân Thủy Tú ghé vào nghỉ ngơi sau giờ làm lụng mệt nhọc. Nỗi lo sợ thú dữ núi Hải Vân chưa kịp xua tan thì những người Thủy Tú đi khai hoang phía bờ bắc lại nơm nớp nỗi lo khác, bởi khúc sông gần cửa biển vốn êm đềm, bình lặng này bỗng nổi lên sóng gió hung tợn khó lường. Có lúc khi chiếc ghe chở người đang tròng trành giữa dòng thì sóng lớn xô cuốn nhấn chìm và mấy ngày sau mới tìm thấy những xác người lập lờ nơi cửa biển. Sự chết chóc, tang thương như thế thỉnh thoảng lại xảy ra trên đoạn sông này làm cho cuộc sống của dân làng lâm vào cảnh khốn khó, vườn tược, nương rẫy phía bờ bắc sông Cu Đê trở thành hoang dại, cỏ lau ngập lút cây trái vì không ai còn dám bơi ghe qua chăm bón. Thế rồi một hôm có người phụ nữ không chồng của làng Thủy Tú làm lễ cúng vái thần linh, thổ địa, cầu xin Hà Bá mở lòng thương dân để cho mọi người được an sinh, bình ổn. Sau lễ cúng, người phụ nữ nọ triệu hồi dân chúng và bảo rằng trên cồn đất giữa dòng sông Cu Đê, nơi bà con thường qua lại đôi bờ nam-bắc đang có Thánh Bà cai quản, phải dựng miếu thờ cúng mới hy vọng bà phù hộ, chở che. Dân làng Thủy Tú bèn đốn tre, cắt tranh cất dựng cái chòi để hương khói Bà chúa sông theo lời phán của người đàn bà trong làng và từ đó không còn nạn đuối nước nữa. Trải thời gian với nhiều lần sửa chữa, miếu mới được tồn tại cho đến ngày nay. Sự hình thành ngôi miếu này cũng còn có câu chuyện mang đậm màu sắc huyền bí rằng cũng xuất phát từ sự giận dữ ở nơi hạ lưu của dòng Cu Đê gây cảnh thảm nạn đau lòng đối với dân làng Thủy Tú nên bà Chúa Ngọc, tức là vị nữ thần Po Yan Inư Nagar, vợ của thần Siva vương quốc Chămpa đã hiển linh cứu dân, độ thế. Để tỏ lòng biết ơn bà, bà con đã dựng miếu giữa cồn bồi thờ cúng từ đời này sang đời khác. Theo các cụ cao niên của hai làng Thủy Tú, Nam Ô cho biết từ thuở xa xưa cho đến ngày nay, miếu đều tựa lưng vào dãy núi phía thượng nguồn, mặt hướng ra biển lớn bởi theo truyền thuyết của người Chămpa, bà Chúa Ngọc được ra đời từ cây trầm hương, đi từ non cao xuống biển rồi tạo ra muôn loài trên thế gian…Năm tháng trôi qua, hình hài miếu thờ cũng thay đổi nhiều lần cho tới triều vua Gia Long mới được xây bằng gạch với kiểu kiến trúc vòm cuốn, mái lợp tạo thành 3 tầng, các đầu đao cao vút. Bà Chúa Ngọc được vua sắc phong "Hồng nhân phổ tế linh ứng thượng đẳng thần".

Đó là những câu chuyện dân gian gắn liền với ngôi miếu được cho hình thành cách đây hơn 400 năm ở cồn đất giữa dòng Cu Đê.

Điều bí ẩn lạ lùng có thật là trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Cồn Miếu là vùng đìu hiu, hoang vắng, không có người bơi chèo ra cầu xin, cúng kính. Lợi dụng sự vắng vẻ, yên tĩnh này, bộ đội từ phía bắc hành quân vào thường lấy Cồn Miếu làm nơi trú ẩn mỗi khi vượt sông Cu Đê sang bờ nam và cất giấu lương thực, vũ khí để chờ thời cơ chuyển đi tiếp. Biết được địa điểm này, nhiều lần địch dùng các loại máy bay thả bom, phóng rốc-két, khói lửa ngập trời, cây cối trên cồn bật gốc, xác xơ, song không có trái pháo, quả đạn nào rơi trúng miếu cả. Chính vì vậy nên nhiều người quanh vùng cho rằng miếu Bà rất linh thiêng. Do thời gian tàn phá hư hỏng, năm 1980 ngôi miếu được dân làng Thủy Tú tu sửa nhưng vẫn giữ nguyên lối kiến trúc xưa cũ.

Hàng năm vào ngày 20-6 âm lịch, bà con làng Thủy Tú chung góp làm cỗ mang xuống ghe thuyền bơi ra cồn đất giữa sông cúng Bà tại miếu. Bây giờ ở gần cửa biển sát với cầu Nam Ô có tới 3 cái cồn đất khá lớn nổi lên giữa sông nhưng đều không có tên, chỉ duy nhất cái cồn có ngôi miếu cổ được gọi tên Cồn Miếu.

Thái Mỹ