Làng xã xưa với việc dự phòng thiên tai

Thứ sáu, 12/12/2025 09:21

1. Chắc hẳn trong mỗi chúng ta đã từng được nghe nhắc đến câu chuyện Sơn Tinh, Thủy Tinh. Đây là truyền thuyết trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam. Câu chuyện không chỉ là một cách giải thích nguyên nhân về thiên tai, bão lũ mà còn nêu bật khát vọng chế ngự thiên nhiên của con người. Cạnh đó, qua câu chuyện cũng cho thấy hiểm họa thiên tai đã có từ thời xa xưa và tổ tiên ông bà ta đã có những kinh nghiệm quý trong ứng phó, tích trữ dự phòng khi thiên tai xảy ra ngay từ làng xã.

Bìa sách "Nếp cũ làng xóm Việt Nam" của Toan Ánh đã ghi chép lại nhiều nét văn hóa của người Việt trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Bìa sách "Nếp cũ làng xóm Việt Nam" của Toan Ánh đã ghi chép lại nhiều nét văn hóa của người Việt trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.


Qua sử liệu cho thấy, nhiều triều đại rất quan tâm trăn trở và đã có những chính sách mang tầm quốc gia cho lĩnh vực này. Theo sách "Đại Việt sử ký toàn thư", các năm 1447, 1448 thiên tai liên tục, hạn hán xảy ra khắp nơi. Tháng 6 năm 1448, vua Lê Nhân Tông xuống chiếu viết rằng: Vài năm nay, tai dị liên tiếp xảy ra: lụt lội, hạn hán, sâu bệnh không năm nào không có. Có phải vì Đạo giữ nước trị dân của trẫm trên không thuận lòng trời dưới chưa thỏa chí dân mà đến nỗi thế không? Hay là các đại thần phò tá không được người xứng đáng, điều hòa trái phép, xếp đặt sai lẽ mà đến nỗi thế chăng?

Gần đây nhất vào năm 2024, tại Huế đã diễn ra hội thảo khoa học "Diễn trình lịch sử về thiên tai ở Thừa Thiên - Huế", lần đầu tiên nhiều nhà khoa học đã cung cấp một cái nhìn toàn diện về thảm họa thiên tai mang tính lịch sử của vùng đất Huế dưới triều Nguyễn. Thống kê trong "Đại Nam thực lục", chỉ tính thời kỳ trị vì của nhà Nguyễn trong thời gian này đã có trên 30 đợt thiên tai (triều Gia Long có 2, Minh Mạng 10, Thiệu Trị 6, Tự Đức 13; tập trung chủ yếu các tháng 8, 9, 10.

Để ứng phó với thiên tai, vua Gia Long đã cho lập cơ quan Khâm Thiên Giám lo quan sát, chiêm nghiệm thiên văn, dự báo thời tiết, phục vụ việc phòng, chống và sản xuất của nhân dân. Đến thời Minh Mạng, vua cho đắp Đài Quan Thiên Tượng ở Tây Nam Kinh thành Huế. Trên đài dựng bát bình phong để chiêm nghiệm gió và dùng chậu đồng để đo lường lượng mưa…

Dẫn lại những điều trên để thấy rằng thiên tai là câu chuyện không phải mới mẻ, nhưng nó luôn là vấn đề thời sự, là quan tâm của mỗi triều đại. Nguyên nhân bởi thiên tai tác động trực tiếp đến cuộc sống người dân, sự phát triển hay suy sụp của quốc gia dân tộc. Thời Nguyễn, khi thiên tai xảy ra, triều đình có chính sách như: xuất kho cho vay, giảm giá bán, thế chấp, cấm tích trữ vơ vét lương thực, thuê thuyền nước ngoài tải gạo cứu trợ; xuất kho dự trữ trung ương hoặc điều thóc giữa các tỉnh để cứu trợ, tổ chức lạc quyên, cấp thuốc men, chữa bệnh... Ngoài ra, triều đình còn miễn, giảm, hoãn thuế và sưu dịch.

2. Đọc sách "Nếp cũ làng xóm Việt Nam" của Toan Ánh, tác giả cho biết điều khá thú vị về làng xã nước ta ngày xưa với việc dự phòng khi thiên tai. Cụ thể, mỗi làng đều dự phòng một kho lúa riêng, gọi là "kho nghĩa sương", và khi thiên tai nguy cấp cần tới thì đem lúa trong kho cấp cho người túng thiếu. Kho thóc này do dân làng góp và chỉ dùng cho dân làng. Đến năm Tự Đức thứ 18, nhà vua có chuẩn cho các thôn xã mỗi làng đặt một kho, giao cho một người làm chủ thủ, chủ bộ hoặc còn gọi là "sương chỉnh" để giữ kho và cắt tuần phiên canh phòng.

Để có nguồn tích trữ dồi dào, triều đình khuyến khích người giàu có, phú hào cho "kho nghĩa sương" vay. Các phú hào, tiền dư của để tuy là cho kho nghĩa sương vay nhưng chính là làm việc nghĩa để giúp đỡ dân làng. Ở nhiều xã có lệ trích một phần mười tổng số ruộng công để làm ruộng nghĩa sương. Thóc lúa thuộc các ruộng nghĩa sương, khi giặt đều đem nộp hết vào kho. Việc quản trị kho lúa nghĩa sương chủ thủ phải có sổ sách phân minh và phải tuân theo lệ làng ấn định trong điều ước nghĩa sương.

Trong sách "Việt Nam phong tục" Phan Kế Bính có in sao lại điều ước nghĩa sương của xã Đề Kiều tỉnh Bắc Ninh (Hà Bắc) với 7 điều. Bản điều ước nghĩa sương được cả xã ký có lý trưởng áp triện và được sự duyệt y của các quan Tổng đốc và Công sứ.

Cũng theo sách "Nếp cũ làng xóm Việt Nam" của Toan Ánh, ngoài "kho nghĩa sương" cấp xã còn có các "kho nghĩa sương" cấp huyện, tỉnh. Nghĩa là các huyện, tỉnh cũng có "kho nghĩa sương" để cứu giúp dân nghèo khi thiên tai đói kém được áp dụng từ thời Gia Long. Đến thời Tự Đức có kho lúa tương tự nhưng dùng tên "bình chuẩn sương". Thóc ở kho này do Nhà nước xuất tiền ra mua rồi đến những năm mùa màng đói kém, đem bán lại cho dân theo giá mua.

Có thể nói từ "kho nghĩa sương", "ruộng nghĩa sương", hay "bình chuẩn sương" ta mới thấy rằng, dân tộc Việt Nam vốn trọng những vấn đề xã hội, dân sinh. Nền luân lý cổ truyền là: "Nhiễu điều phủ lấy giá gương/ người trong một nước phải thương nhau cùng". Ông bà ta xưa lấy việc phúc đức làm trọng, khuyến khích mọi người làm việc cứu tế. "Thấy ai đói rét thì thương/rét thường cho mặc đói thường cho ăn". Rõ là việc dự phòng lo xa, giúp đỡ nhau với tinh thần cố kết cộng đồng có từ mỗi làng xã của người Việt, nhất là khi có thiên tai, đói kém, "một miếng khi đói bằng gói khi no". Phải chăng do đó, đất nước dù trải qua bao biến cố ngoại bang, nhưng văn hóa làng xã của người Việt vẫn được gìn giữ bảo tồn.

Võ Đoàn Diệu My