Nguy cơ bùng phát bệnh sởi
Hiện cả nước đã ghi nhận 43 tỉnh, thành phố có bệnh nhân mắc sởi, đặc biệt tập trung nhiều tại một số tỉnh, thành phố khu vực phía Nam. Điều đáng chú ý là có tới gần 90% số ca mắc sởi chưa được tiêm phòng, tiêm không đủ liều hoặc không rõ về tình trạng tiêm phòng. Nguy cơ dịch bệnh lây lan và bùng phát bệnh sởi là rất cao nếu các biện pháp phòng chống dịch bệnh không được triển khai quyết liệt hơn.
Nguy cơ dịch bệnh lây lan và bùng phát bệnh sởi là rất cao nếu các biện pháp phòng chống dịch bệnh không được triển khai quyết liệt. Ảnh minh họa |
Diễn biến phức tạp
Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế) cho biết, ngay trong những tuần đầu năm 2019, tình hình dịch bệnh sởi tiếp tục diễn biến phức tạp và có xu hướng gia tăng tại nhiều nước trên thế giới, đặc biệt tại Ukraina và Hoa Kỳ. Tại Hoa Kỳ bệnh quay lại sau 20 năm nước này công bố loại trừ bệnh sởi.
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã ra thông báo về việc gia tăng các trường hợp mắc sởi. Theo WHO, số ca nhiễm sởi năm 2018 là 230.000 trường hợp, tăng rất nhiều so với số ca mắc sởi của năm trước. Do đó, WHO khuyến cáo các bậc cha mẹ cần cho con đi tiêm chủng đúng liều để phòng bệnh cho trẻ.
Tại Việt Nam số ca mắc sởi cũng tăng rất nhanh. Các ca mắc sởi không chỉ là trẻ em mà có cả người lớn và trẻ chưa đến tuổi tiêm phòng, tức dưới 9 tháng tuổi. Một trong những nguyên nhân được xác định là do miễn dịch cộng đồng thấp.
Tại TP Hồ Chí Minh hiện bệnh sởi đã có mặt tại tất cả 24 quận huyện, trong đó số ca mắc sởi tập trung nhiều nhất là ở các quận Bình Thạnh, Thủ Đức, quận 7, huyện Bình Chánh... Thống kê của Trung tâm Y tế Dự phòng TP Hồ Chí Minh cho biết, từ ngày 1-1 đến ngày 10-2-2019, trên địa bàn Thành phố có 987 trẻ mắc sởi phải nhập viện điều trị, trong đó có đến 95% số ca mắc sởi nhập viện do chưa tiêm phòng vaccine.
Tại Đắk Lắk từ ngày 14-1, khi ca sởi đầu tiên được phát hiện, đến nay toàn tỉnh ghi nhận 53 trường hợp mắc bệnh sởi tại TP Buôn Ma Thuột (18 ca), H. Ea H'leo (12 ca), Krông Bông (9 ca), Cư M'gar (8 ca), M'Đrắk (3 ca) và các huyện Krông Ana, Krông Pắc, Lắk (mỗi huyện 1 ca).
Tình hình bệnh sởi đầu năm 2019 tại ĐắkLắk có những diễn biến phức tạp khi các ca bệnh chủ yếu được ghi nhận tại các vùng dân di cư ngoài kế hoạch, vùng sâu, vùng xa, người dân ít tiếp xúc với các phương tiện thông tin đại chúng, việc chăm sóc sức khỏe còn nhiều hạn chế. Qua khảo sát của ngành Y tế, khoảng 80% số bệnh nhân là những người di cư tự phát. Bên cạnh đó, số ca bệnh sởi cũng tăng nhanh và ở nhiều độ tuổi khác nhau, các bệnh nhân đều chưa tiêm vaccine phòng bệnh.
Tại Hà Nội, bệnh sởi đang có chiều hướng tăng nhanh. Từ đầu năm 2019 đến nay toàn thành phố đã có 114 ca mắc sởi, trong đó tháng 1 có 64 ca. So với cùng kỳ năm trước, cả thành phố chỉ có 8 ca, như vậy số ca mắc năm nay tăng hơn 14 lần. Theo thống kê, trong số những ca mắc, có tới 89,1% chưa được tiêm vaccine hoặc tiêm không đủ liều.
Đề phòng lây nhiễm chéo tại bệnh viện
Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lương Ngọc Khuê, Cục trưởng Cục Khám chữa bệnh (Bộ Y tế), đã đề nghị các bệnh viện bằng mọi biện pháp truyền thông (qua loa đài, hướng dẫn trực tiếp, bằng poster, tờ rơi...) để người bệnh, người nhà người bệnh, nhân viên y tế, học viên, sinh viên thực tập hiểu rõ đường lây nguy hiểm của sởi là qua đường hô hấp. Đối với người mắc bệnh sởi và nghi sởi thì phải mang khẩu trang khi đi khám bệnh, đối với trẻ nhỏ (không thể mang khẩu trang) thì người nhà dùng khăn giấy che miệng trẻ khi ho, hắt hơi.
Các khoa khám bệnh phải tổ chức phân luồng và có khu khám riêng để sàng lọc bệnh sởi, nghi sởi. Chỉ nhập viện điều trị nội trú những ca bệnh sởi nặng theo đúng hướng dẫn, đúng tuyến điều trị để tránh quá tải và giảm lây chéo trong bệnh viện. Các cơ sở y tế cần tổ chức tư vấn, hướng dẫn người bệnh biết cách chăm sóc các ca bệnh nhẹ tại nhà để giảm chi phí điều trị cho gia đình và xã hội, tránh được lây nhiễm chéo và quá tải bệnh viện.
Đối với các ca bệnh sởi nặng nếu phải điều trị tại khoa, đơn vị hồi sức tích cực, hồi sức cấp cứu thì cũng phải bảo đảm việc cách ly, kiểm soát nhiễm khuẩn để phòng lây nhiễm chéo. Đối với các ca bệnh nặng phải tổ chức hội chẩn khoa, liên khoa, bệnh viện theo quy định hoặc xin ý kiến hướng dẫn, trao đổi thông tin, hỗ trợ về chuyên môn với tuyến trên. Các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh phải căn cứ số lượng và mức độ bệnh để tăng cường nhân lực, khu vực điều trị nội trú nhằm giảm quá tải cho nhân viên y tế làm công tác điều trị bệnh dịch và hạn chế việc người bệnh truyền nhiễm phải nằm ghép.
Trong trường hợp bệnh nhân không phải chuyển lên tuyến trên thì Bộ Y tế đã chỉ đạo các bệnh viện đầu ngành hỗ trợ tuyến dưới, sẵn sàng hội chẩn, góp ý, chỉ đạo chuyên môn qua đường dây nóng.
B.THỦY