Nhà văn Hoàng Bình Trọng: Âm thầm cháy, âm thầm tỏa sáng!
1. Có lần dự Đại hội Nhà văn Việt Nam, thời gian rỗi tôi thường hay đến chơi ở phòng của đoàn nhà văn Quảng Bình. Lần nào tôi cũng gặp một “ông già” gầy nhom, má hóp, da mồi, đeo kính lão nằm đọc sách. Hỏi "Sao bác lúc nào cũng nằm nhà vậy?”, ông cười: “Ra phố phải có tiền. Mà mình không có tiền, mần răng được!”. Sau đó tôi mới biết “ông già đau khổ” đó là nhà văn Hoàng Bình Trọng, tác giả của “Bí mật những khu rừng”... mà tôi từng đọc thuở nhỏ. Tôi la lên: "Trời ơi bác ơi là bác, là nhà văn sao lại kêu không có tiền được? Văn là tiền đó thôi!”. Anh tròn xoe mắt nhìn tôi, rồi kể: "Lâu nay mình viết tiểu thuyết, in xong họ trả nhuận bút. Viết vài ba tháng mới được cuốn sách, chờ đợi duyệt, in mất vài ba tháng nữa, có khi cả năm, mà nhuận bút không đủ để mua sách tặng. Ví dụ cuốn Ngô Minh khen là cuốn “Bí mật khu rừng “ ấy mình viết xong năm 1971, năm 1973, Nhà Xuất bản Kim Đồng in lần đầu tới 3 vạn bản, trả nhuận bút 1.600 đồng. Hồi ấy như thế cũng là số tiền lớn. Lúc đó mình còn có lương kỹ sư, bây giờ về “một cục” rồi, lương không còn nữa, lấy gì để ăn mà viết...?
Nói rồi anh thở dài. Tôi sáng kiến: "Bác phải lấy ngắn nuôi dài thôi. Trong lúc “thai nghén” tiểu thuyết, trường ca, bác phải tranh thủ viết cho các báo mới có tiền. Viết truyện ngắn, truyện dịch, ký, nhưng phải ngắn dưới 2.000 chữ các báo mới tải được. Cũng văn chương cả đấy, nhưng nó nhanh mà có tiền sớm. Bác thử về viết mấy cái truyện ngắn, gửi vào Huế cho em". Hai tuần sau tôi nhận được ba truyện ngắn của anh gửi bưu điện vào. Tôi đọc thấy anh viết truyện ngắn rất khá, bèn gửi cho mấy người bạn thân làm ở các báo, tạp chí. Tháng sau tôi nhận được thư Hoàng Bình Trọng gửi từ nhà ở Quảng Trạch. Đọc thư mà cứ nghe cay cay sống mũi: "... Ngô Minh ơi, ba truyện ngắn đã được in cả, mình vừa ra bưu điện nhận một lúc 500 ngàn đồng nhuận bút. Từ ngày về hưu đến nay, chưa bao giờ mình nhận được khoản tiền lớn đến thế! Mình có thể gọi Ngô Minh là “ân nhân” được không?...”.Và thế là anh trở thành cộng tác viên đắc lực của nhiều tờ báo cho đến bây giờ...
2. Hoàng Bình Trọng sinh năm 1942, Mậu Tuất này anh 77 tuổi. Từ nhỏ, anh được bố, một công chức thời Pháp làm việc ở Sài Gòn dạy tiếng Pháp, tiếng Tàu làu làu. Sau này ông cụ dắt con về quê làm phiên dịch tiếng Pháp cho Việt Minh huyện. Cái vốn ngoại ngữ ấy đã giúp anh nhiều trong học hành, công việc. Sau này còn giúp anh dịch dụng kiếm sống qua ngày. Hoàng Bình Trọng tốt nghiệp Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, là kỹ sư địa chất, lăn lộn khắp chốn rừng thiêng nước độc, cơm vắt, nằm võng, leo dốc vượt đèo Đông Bắc, Việt Bắc, Tây Bắc... đi tìm quặng cho Tổ quốc. Anh kể, hồi làm Trưởng phòng kỹ thuật của Đoàn địa chất, có lần Đoàn tổ chức thi báo tường. Phòng anh, gọi là "phòng trí thức" không ai viết lách thơ phú gì. Thế là trưởng phòng Trọng đêm phải thức làm cho mỗi người một bài thơ, bảo họ ký tên vào rồi dán lên. Thế rồi đầu xuân, có đoàn các nhà văn đi thực tế đến Đoàn địa chất, họ đọc báo tường khen hết lời. Sau đó họ viết bài giới thiệu trên báo, rồi in luôn bài thơ của Hoàng Bình Trọng. Hình như đây là lần đầu tiên anh được in thơ trên báo Văn nghệ.
Làm nhiều thơ nhưng Hoàng Bình Trọng lại nhập làng văn bằng cuốn tiểu thuyết "Bí mật những khu rừng". Năm 1967, từ vùng mỏ Mạo Khê, anh được điều về làm giáo viên Trường Trung cấp Mỏ địa chất. Thời chiến tranh, có máy bay Mỹ học sinh phải xuống hầm trú ẩn nên thầy thường "cháy giáo án". Thế là anh phải cô đúc bài giảng lại cho gọn nên thừa thời gian. Để khỏi ảnh hưởng đến lớp khác, anh bèn mang chuyện rừng núi ra kể cho học sinh nghe. Đấy là những chuyện vượt qua hiểm nguy, suối sâu, vực thẳm, thú dữ của anh cán bộ địa chất đi tìm quặng trong rừng, học sinh rất thích. Chuyện đến tai nhà thơ xứ Nghệ Nguyễn Bùi Vợi, lúc ấy đang dạy cấp 2 ở trường bên cạnh. Trong một chuyến về Hà Nội, anh Vợi kể lại chuyện với nhà văn Nguyễn Quỳnh ở Nhà Xuất bản Kim Đồng, thế là nhà xuất bản sốt sắng liên hệ đề nghị anh viết thành sách. Hoàng Bình Trọng nhận lời nhưng sợ lắm vì cả đời chưa từng viết một trang văn xuôi nào. Nhưng "cứ liều" xem sao. Thế là viết một lèo gần một tháng xong cuốn tiểu thuyết Bí mật của khu rừng. Sách ra, anh mừng run người. Từ đó Hoàng Bình Trọng phấn chấn lao vào cặm cụi viết tiếp hàng chục cuốn tiểu thuyết dày bốn năm trăm trang như Quanh chỗ anh nằm, Những tấm lòng yêu thương, Thung lũng Tam Đài...
3. Năm 1971, Hoàng Bình Trọng nhập ngũ, đi chiến đấu 5 năm liền ở chiến trường Lào, miền Đông Nam Bộ, Đồng bằng Sông Cửu Long... Giải ngũ, anh về lại trường rồi viết văn làm thơ có tiếng... Khi chuyển về Hội Văn nghệ Vĩnh Phú, anh làm Thư ký Tòa soạn Tạp chí Văn nghệ Đất Tổ. Lúc ấy vợ anh bị bệnh nên về hưu non và về quê sống. Gặp đôi chuyện "trục trặc" trong công việc ở cơ quan, thế là anh cũng xin “về một cục”, dứt áo về quê. Đây là thời kỳ khốn quẫn nhất của gia đình anh. Gia đình ba miệng ăn mà chỉ trông vào đồng lương hưu non của vợ chỉ hơn 1 triệu đồng. Vợ thì bệnh tật đau ốm thuốc thang suốt ngày. Con thì nhỏ dại. May là ông anh ruột mua cho miếng đất cắm dùi ở xã Quảng Hòa để làm cái chòi chui đụt. Lại bắt đầu từ hai bàn tay trắng. Vợ chồng làm ruộng, viết văn, đi rừng đốn củi, trồng rau màu, đơm cá... Một năm sau, nhà văn Văn Lợi, Tổng Biên tập Tạp chí Nhật Lệ mời vô Đồng Hới làm chân hợp đồng biên tập. Hoàng Bình Trọng cũng vui vẻ làm. Làm để khuây khỏa tâm hồn, làm để cho mẹ Lại mừng con biết đọc thuê viết mướn/ Mà vòng đời danh lợi chẳng bon chen...(Suy ngẫm). Ngày thì ngồi bên bàn viết, đọc, đêm thì trải chiếu nằm ngủ ngay trên bàn. Một tuần, nửa tháng lại đạp xe 45 cây số ra với vợ con. 12 năm lại nước lọ cơm niêu, dép râu, mũ cối. Một chiếc xe đạp cà tàng, chỉ dùng để đi chợ và đi uống rượu khi có bạn gọi, một chiếc cặp da cũ từ thời Phú Thọ đựng đầy bản thảo tiểu thuyết, truyện dịch, thơ... Hoàng Bình Trọng sống như bóng cây không gió, nhưng anh lại nghĩ toàn chuyện văn chương đại sự. Trong chiếc cặp mòn vẹt thời gian ấy là bản thảo trường ca ngàn câu về Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, mà anh ấp ủ bao nhiêu năm nay. Trường ca “Tướng Giáp - Người anh cả của toàn quân” của Hoàng Bình Trọng là trường ca đầu tiên viết về cuộc đời Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Trường ca đã được Trung ương Đoàn và Hội Nhà văn trao giải nhất trong đợt xét các tác phẩm văn học cho thiếu nhi đầu năm 2010.
4. Ở Quảng Bình, anh em văn nghệ thường gọi Hoàng Bình Trọng là "của hiếm", "là trầm trong ruột gỗ", là "ông đồ xưa", một kiểu Nguyễn Hàm Ninh xưa sót lại, sâu sắc và hóm hỉnh vô cùng. Dân chữ nghĩa ở Quảng Bình cứ xuýt xoa khen hoài những câu đối thông minh sâu sắc của anh. Hoàng Bình Trọng là thế. Lặng lẽ mà sắc sảo. Mới gặp tưởng cục mịch nhưng lại rất thông minh, vui nhộn. Lao động hết mình trên từng trang viết nhưng không ồn ào, âm thầm nơi thôn dã. Anh như cây nến trước gió đời: Âm thầm cháy, nến âm thầm tỏa sáng / Âm thầm soi những góc tối âm thầm...(Khúc ca cây nến). Thế mà nhìn lại chặng đường văn chương của anh ai cũng phải kính nể: đến nay, đã in 24 đầu sách, 9 tiểu thuyết, 8 tập truyện ngắn và truyện dịch, 7 tập thơ, trường ca, vô khối những bài báo, câu đối, truyện dịch tiếng Pháp, tiếng Trung, tiếng Nga...! Có những nhà văn giữa đời cứ luôn giấu mình đi, ấy là nhà văn Hoàng Bình Trọng. Anh sống cương trực, giản dị, hóm hỉnh, đêm về chong đèn cặm cụi đọc và viết. Viết như là không thể làm gì khác được:
...vẫn chưa hết cuộc hành trình/Vẫn nghe mình gọi tên mình nơi xa/Thì đi cho hết bài ca/Đi cho tiếng nấc bật ra tiếng cười...(Tự hát).
NGÔ MINH
Nhà văn Hoàng Bình Trọng (trái) và tác giả.