Thơ của một người làm báo

Thứ sáu, 20/06/2025 21:06

Tôi vẫn âm thầm dõi theo hành trình thơ Nguyễn Ngọc Hạnh, một nhà báo mà tôi hằng quý mến. Rất mừng là thơ anh được nhiều người bìnhphẩm với những “lời hay ý đẹp”, đặc biệt hơn trăm bài thơ phổ nhạc được giới thiệu rộng rãi trong công chúng, đó là điều hiếm có. Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh xuất hiện khá đều đặn trên các báo và tạp chí từ Trung ương đến địa phương, đặc biệt là suốt nhiều năm anh còn chăm lo vườn thơ ở Đà Nẵng, thu hút nhiều người làm thơ trong cả nước hội tụ về, một trang thơ hay và đầy chất lượng...

Với người làm văn chương điều hạnh phúc nhất là tác phẩm của mình không bị rơi vào quên lãng. Nguyễn Ngọc Hạnh tâm niệm rằng: “Làm thơ không phải để mong cầu lưu danh muôn thuở với đời, nhưng nếu như có ai đó nhớ một bài thơ, thậm chí một câu thơ của mình cũng là niềm hạnh ngộ”.

Để “ai đó nhớ một bài thơ, thậm chí nhớ một câu thơ của mình” thật không dễ chút nào. Sự nhớ của thơ khác sự nhớ của văn xuôi. Hiếm ai đọc thuộc lòng một truyện ngắn vài chục trang. Cũng không có ai đọc thuộc lòng một cuốn tiểu thuyết vài trăm trang. Còn thơ thì có người đọc thuộc lòng cả “Truyện Kiều” gồm 3.254 dòng. Theo tôi, sự nhớ là một yếu tố quan trọng giúp người đọc phân biệt giữa thơ và văn xuôi. Trên văn đàn đang có xu hướng thơ hóa văn xuôi và văn xuôi hóa thơ. Ranh giới giữa thơ và văn xuôi hiện nay rất mong manh. Trữ tình hay tự sự, miêu tả cảnh vật hay nội tâm tuy đậm nhạt khác nhau nhưng cả thơ lẫn văn xuôi đều sử dụng.

Khác với văn xuôi, người xưa sáng tạo ra thơ chủ yếu dựa vào quy luật của trí nhớ. Tất nhiên không phải bài thơ nào làm theo quy luật trí nhớ đều hay, nhưng những bài thơ hay xưa nay phần lớn đều dễ thuộc, dễ nhớ. Nhờ thuộc nằm lòng những câu thơ hay trong “Truyện Kiều”, bản dịch “Chinh phụ ngâm”, bản dịch “Tỳ bà hành”, thơ của Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư, Tế Hanh, Tố Hữu, Quang Dũng, Lưu Quang Vũ... mà tôi yêu thơ, say thơ như điếu đổ. Cùng với ca dao, thơ nhập vào hồn cốt của tôi, hóa thành máu thịt của tôi. Thú thực, nghe ai đọc thuộc một bài thơ, một câu thơ của mình, tôi xúc động đến trào nước mắt.

Nguyễn Ngọc Hạnh may mắn có được diễm phúc ấy. Lướt qua mấy chục bài các nhà phê bình viết về thơ anh, tôi nhận thấy câu thơ được trích dẫn nhiều nhất là: “Xưa tôi sống trong làng/Giờ làng sống trong tôi” (Làng). Điều đó chứng tỏ thơ hay vẫn có mẫu số chung. Tâm trạng của những người con xa quê được tác giả diễn tả một cách ngắn gọn, dung dị, đăng đối, triết lý khiến cho ai đọc cũng lập tức găm vào trí nhớ. Văn xuôi và thơ đôi khi chỉ khác nhau có một từ. “Sống” là trạng thái động. “Tôi sống trong làng” gợi bao nhiêu kỷ niệm. “Làng sống trong tôi” gợi bao nhiêu niềm thương, nỗi nhớ. Chế Lan Viên có câu nổi tiếng: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn” (Tiếng hát con tàu). Tôi đã đọc “Miền thơ ấu” (Vũ Thư Hiên), “Dòng sông thơ ấu” (Nguyễn Quang Sáng), “Tuổi thơ im lặng” (Duy Khán)... Tôi thuộc lòng: “Nhớ con sông quê hương” (Tế Hanh), “Quê hương” (Giang Nam), “Bên kia sông Đuống” (Hoàng Cầm)... Nguyễn Ngọc Hạnh tiếp nối mạch nguồn ấy với cách cảm, cách nghĩ, cách thể hiện riêng của mình. Anh tìm tòi theo hai hướng: hướng truyền thống và hướng cách tân.

Nhìn tổng thể thơ Nguyễn Ngọc Hạnh, tôi nhận thấy anh thành công hơn ở hướng truyền thống. Những bài thơ viết về làng quê cũng phù hợp với hướng truyền thống hơn. Hạnh sử dụng chất liệu ca dao, dân ca rất linh hoạt và sáng tạo. Đây là những câu thơ anh viết về mẹ: “Giữ lại em chỗ ướt mẹ nằm/gửi ngọn gió lùa kẽ phên đêm trở dạ/giá rét trên từng manh chiếu vá/mẹ chừa bên ráo con lăn” (Chỗ ướt mẹ nằm). Ở câu thơ cuối anh vận dụng rất khéo bài ca dao: “Nuôi con chẳng quản chi thân/ Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn”. Đây là những vần thơ anh viết về dòng sông Vu Gia: “Tôi về trong một chiều mưa/ Còn đâu, cả tiếng đò thưa vắng dần/ Sông ơi, xin được một lần/ Cho tôi trả hết nợ nần trót vay” (Nói gì đây sông ơi). Nguyễn Ngọc Hạnh không cố ý vặn vẹo “chặt đôi câu thơ, bẻ đôi câu thơ” để được khen có công làm mới thơ lục bát. Cái anh mong muốn là viết sao để truyền được cảm xúc của mình một cách chân thật, tự nhiên đến với bạn đọc. Lục bát của anh bình dị, nhuần nhuyễn, thanh thoát. Còn đây là những vần thơ Nguyễn Ngọc Hạnh viết về mối tình ở quê: “Lặng lẽ với giếng sâu/Xin nối sợi dây gàu cho lòng bớt cạn/Tôi múc ánh trăng về làm thơ/Rồi tri âm em mà bầu bạn” (Đôi khi). Có hai bài ca dao được anh vận dụng ở bốn dòng thơ này. Đó là: “Em tưởng nước giếng sâu/ Em buông sợi gàu dài/ Ai ngờ nước giếng cạn/ Em tiếc hoài sợi dây”. Và: “Hỡi cô tát nước bên đàng/ Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi”. Không có vốn ca dao phong phú, không có óc liên tưởng nhạy bén khó lòng viết được những câu thơ chân chất, dân dã như thế.

Tìm hiểu kỹ những bài thơ Nguyễn Ngọc Hạnh làm theo hướng truyền thống, tôi bắt gặp không ít cách nói mới lạ, khiến cho thơ anh không bị cũ, không bị mòn sáo như số đông tác giả làm theo hướng này. Ở bài “Trăng phía thượng nguồn”, Hạnh viết: “Tôi gối đầu lên tháng chạp/Nằm co ro/nghe tiếng mưa buồn”. Ở bài “Trả vay”, Hạnh viết: “Cả đời nương tựa bơ vơ/Mong manh ngọn cỏ đôi bờ lau khô”. Và: “Ai đè lên giấc chiêm bao/Mà đêm cứ ngắn ngày sao quá dài”. Ở bài “Gửi quê nhà”, Hạnh viết: “Ngồi bên giếng cạn đầu làng/Câu thơ chạm tiếng gàu vang nỗi niềm”. Ở bài “Giao thừa”, Hạnh viết: “Phút này rồi cũng xa xôi/Tôi giao thừa với lở bồi đêm xuân”. Những “gối đầu lên tháng chạp”, “nương tựa bơ vơ”, “ai đè lên giấc chiêm bao”, “câu thơ chạm tiếng gàu vang”, “tôi giao thừa với lở bồi”... góp phần làm nên nét khác biệt trong hướng thơ truyền thống của anh.

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh trong sáng, chân thật, giàu cảm xúc, giàu suy tư. Chính luôn đau đáu nỗi niềm với làng quê đã giúp anh viết được những vần thơ gan ruột, dễ thuộc, dễ nhớ. Trên con đường thơ đầy chông gai với bao nhiêu ngã ba ngã bảy, mỗi người tự tìm cho mình một hướng đi, một cách thể hiện, nhưng cái đích cuối là phải phấn đấu viết được những câu thơ, bài thơ hay, vượt qua sự thử thách khắc nghiệt của thời gian.

Huế, 24-5-2025

MAI VĂN HOAN