Những luận cứ khoa học về nhận chìm chất nạo vét vũng quay tàu và luồng vào cảng Nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 1

Thứ ba, 11/07/2017 10:52

(Cadn.com.vn) - Trên cơ sở quy định của Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, Luật Bảo vệ môi trường, ý kiến của các bộ, ngành liên quan, UBND tỉnh Bình Thuận và Hội đồng thẩm định, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã cấp Giấy phép số 1517/GP-BTNMT ngày 23-6-2017 cho phép Công ty TNHH Điện lực Vĩnh Tân 1 được nhận chìm vật liệu nạo vét từ vũng quay tàu, khu nước trước bến chuyên dùng phục vụ Nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 1.

Ngày 10-7, TTXVN đăng bài viết của ông Vũ Thanh Ca, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu biển và hải đảo, thành viên Nhóm chuyên gia môi trường biển LHQ đã nêu ra những luận cứ khoa học trong việc cấp phép nhận chìm vật liệu nạo vét từ vũng quay tàu, khu nước trước bến chuyên dùng phục vụ Nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 1. Báo Công an TP Đà Nẵng xin tóm lược một số nội dung đáng chú ý của bài viết quan trọng này.

Nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 1, Bình Thuận.

Công ước London 1972

Vào tháng 11-1972, tại Hội nghị Liên chính phủ tổ chức tại London, dự thảo Công ước về phòng ngừa ô nhiễm biển do đổ chất thải và các chất khác ở biển (Công ước London 1972) được thông qua. Để hiện thực hóa Chương trình Nghị sự 21, tăng cường bảo vệ môi trường biển phục vụ phát triển bền vững, tại cuộc họp đặc biệt của các nước thành viên Công ước London 1972, vào năm 1996 tại London, Nghị định thư về Công ước về phòng ngừa ô nhiễm biển do đổ chất thải và các chất khác ở biển (Nghị định thư London 1996) cũng đã được thông qua.

Nghị định thư này mới được sửa chữa, bổ sung vào năm 2006. Mục đích của Công ước cũng như Nghị định thư đều đảm bảo hạn chế tới mức thấp nhất ô nhiễm biển do đổ thải ở biển gây ra, đồng thời giúp tìm các phương án đổ thải thích hợp nhất, tăng cường hiệu quả của các dự án đầu tư, góp phần phát triển kinh tế biển. Trong Công ước London 1972 và Nghị định thư London 1996 đều quy định chất nạo vét là chất được phép đổ xuống biển. Cơ sở của việc này là chất nạo vét là chất được đưa lên từ đáy biển và việc đưa nó trở lại biển là một việc rất tự nhiên nếu nó không chứa những chất độc hại có khả năng làm môi trường biển thay đổi theo chiều hướng xấu đi.

Theo số liệu của Tổ chức Hàng hải quốc tế, năm 2016, vật liệu nạo vét chiếm khoảng 80-90% các vật, chất được phép nhận chìm với tổng lượng khoảng 250-500 triệu tấn được cấp phép nhận chìm ở biển hàng năm.

Quy định của Việt Nam

Nhận thức được rằng trong nhiều trường hợp, việc đổ thải trên bờ rất khó khăn, tốn kém, thậm chí bất khả thi và để nội luật hóa các quy định quốc tế vào luật pháp Việt Nam, Luật Bảo vệ môi trường 2014 đã cho phép nhận chìm, đổ thải ở biển. Việc nhận chìm ở biển đã được quy định chi tiết trong Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo 2015 và Nghị định số 40/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo. Danh mục các chất được phép nhận chìm ở biển quy định trong Nghị định số 40/2016/NĐ-CP của Chính phủ hoàn toàn trùng lặp với danh mục các chất được đổ xuống biển quy định trong Công ước London 1972 và Nghị định thư London 1996 và bao gồm chất nạo vét.

Mục đích của việc quy định hoạt động nhận chìm ở biển là để quản lý tốt hơn và giảm thiểu tác động môi trường do hoạt động nhận chìm, đồng thời giảm chi phí, tạo điều kiện để phát triển kinh tế biển một cách hiệu quả nhất. Một quy định rất chặt chẽ trong luật pháp quốc tế và luật pháp Việt Nam về nhận chìm ở biển là phải thực hiện cấp phép để đảm bảo hạn chế thấp nhất những thiệt hại về môi trường, sinh thái do các hoạt động nhận chìm gây ra. Theo đó, phải đảm bảo khu vực nhận chìm không phải là khu vực có tầm quan trọng cao về môi trường, sinh thái và hoạt động nhận chìm ở biển không được gây ra những tác động có hại tới các khu vực biển có tầm quan trọng cao về môi trường sinh thái ở xung quanh khu vực nhận chìm.

Thực tiễn ở Vĩnh Tân

Theo Báo cáo dự án nhận chìm vật liệu nạo vét từ vũng quay tàu, khu nước trước bến chuyên dùng phục vụ Nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 1, độ dày lớp đất cát nạo vét điển hình khoảng 14,5m. Trong đó có một lớp cát pha bùn sét với hàm lượng bùn sét không vượt quá 5%. Các lớp khác chủ yếu là cát và có rất ít bùn sét. Khi bị đổ xuống biển, chất nạo vét sẽ trùm lên đáy biển và gây ra tác hại với các sinh vật sống ở đáy biển. Nếu lớp chất đổ xuống dày, một số loài sinh vật sẽ bị chết. Một số khác có khả năng xuyên qua lớp cát để lên mặt và không bị chết. Ngoài ra, bùn và các chất độc hại (nếu có) trong chất nạo vét có khả năng hòa tan trong nước biển và bị dòng chảy biển mang đi, có khả năng ảnh hưởng tới các khu vực khác.

Theo Báo cáo nhận chìm Nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 1, kết quả khảo sát hiện trường cho thấy nền đáy biển khu vực đổ chất nạo vét của Nhà máy chủ yếu là nền cát với rất ít sinh vật sinh sống. Vì vậy, hoạt động đổ thải sẽ ảnh hưởng ít tới đa dạng sinh học và nguồn lợi thủy sản ở khu vực này. Kết quả phân tích đối với dự án nhận chìm chất nạo vét tại Vĩnh Tân 1, trong thành phần của chất nạo vét không thấy có chất độc hại như kim loại nặng hoặc các chất độc hại khác vượt quá mức cho phép. Như vậy, vấn đề cần quan tâm khi đổ chất nạo vét chỉ là độ đục của nước chứ không phải là hàm lượng của các chất độc hại.

Hạn chế tác động môi trường biển

Như đã nêu ở trên, hoạt động nhận chìm chất nạo vét trong dự án Vĩnh Tân 1 có thể có tác động tới môi trường của các khu vực xung quanh, đặc biệt là khu bảo tồn biển Hòn Cau và bãi cạn Breda là những khu vực có các rạn san hô quý hiểm và hệ sinh thái rạn san hô với đa dạng sinh học rất cao. Nếu bùn nạo vét bị vận chuyển tới và lắng đọng tại các khu vực này, thiệt hại về môi trường, sinh thái sẽ rất lớn. Vì vậy, dự án cần được thực hiện sao cho việc nhận chìm chất nạo vét ảnh hưởng không đáng kể tới khu vực nhận chìm. Bởi vùng biển Bình Thuận có một hệ thống dòng chảy rất phức tạp. Mùa hè, dòng mặt chảy ven bờ chủ yếu có hướng từ Nam lên Bắc. Mùa đông, dòng chảy mặt chủ yếu có hướng từ Bắc xuống Nam. Hệ thống dòng chảy này có vận tốc tối đa trên 0,5m/s và đóng vai trò chính trong vận chuyển nước đục từ khu vực nhận chìm đi các nơi khác. Có một số ý kiến cho rằng trong mùa hè có tồn tại một vùng nước trồi bên ngoài vùng biển Nam Trung Bộ nên việc đổ thải vào mùa hè là rất nguy hiểm do hệ thống nước trồi này có khả năng vận chuyển nước đục đi xa.

Tuy vậy, cần nhận thức rằng hệ thống nước trồi ở đây có tâm cách bờ khoảng 100km, ở vùng biển có độ sâu rất lớn. Vì khu vực nhận chìm có độ sâu nhỏ, chỉ dưới 40m, dòng chảy từ khu vực nước trồi vào khu vực này gần như theo phương ngang và có vận tốc nhỏ hơn rất nhiều so với dòng gió và dòng triều, nên nó hầu như không ảnh hưởng đáng kể tới việc vận chuyển nước đục đi xa. Để tính toán, đánh giá tác động của việc nhận chìm chất nạo vét tới khu bảo tồn biển Hòn Cau, Báo cáo dự án nhận chìm được Bộ Tài nguyên và Môi trường thông qua đã thực hiện tính toán bằng mô hình số trị sự lan truyền nước đục do hiện tượng nạo vét và đổ thải gây ra. Mô hình đã tính tới ảnh hưởng tổng hợp của dòng chảy gió, dòng triều và dòng chảy gây ra do sự chênh lệch mật độ, mực nước trên toàn miền.

Theo tính toán, dưới tác động của sóng, cát biển sẽ chỉ dịch chuyển cát được một đoạn rất ngắn và không thể cuốn lên để trùm lên san hô tại Hòn Cau hoặc Breda. Bùn có thể bị cuốn lên, nhưng động lực mạnh mẽ tại rạn san hô trong bão sẽ không cho phép bùn lắng đọng ở đây. Thực tế là trong bão bùn từ trong lục địa chảy ra rất nhiều, làm đục cả dải nước biển ven bờ nhưng không ảnh hưởng gì đến các rạn san hô. Cần nhận thức rằng nước đục là do bùn trong chất nạo vét gây ra. Theo các kết quả nghiên cứu trên thế giới, bùn là những hạt có kích thước nhỏ hơn 60 micrometre, có cấu tạo dạng bản và tích điện trái dấu ở giữa bản (điện âm) và xung quanh (điện dương) nên nó có xu hướng kết bông (tiếng Anh gọi là flocculation hay aggregation) do tích điện trái dấu và hút nhau giữa cạnh hạt bùn và giữa hạt bùn. Các khối bông kết bùn giúp bùn lắng đọng nhanh hơn nhưng khá yếu trong nước ngọt. Tuy vậy, khi ra đến biển, nước biển có chứa rất nhiều i-ôn. Các i-ôn này sẽ làm các khối bông kết của bùn vững chắc hơn rất nhiều. Chính các khối bông kết này giúp bùn nhanh chóng lắng đọng xuống đáy ở vùng cửa sông, ven biển để tạo ra các đồng bằng châu thổ.

Với lý do này, chỉ khu vực gần cửa sông mùa lũ là có nước đục còn biển ngoài khơi luôn trong xanh. Đó cũng là lý do tại sao sau các trận mưa lớn, nước sông tải ra biển thậm chí hàng tỷ mét khối nước đục nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó biển trở thành trong sạch rất nhanh. Khi lắng đọng xuống đáy, bùn sẽ hấp phụ các chất nhiễm bẩn khác và làm sạch nước biển. Như vậy, trong gió mùa mùa hè, bùn trong dòng nước đục do hiện tượng nhận chìm chất nạo vét gây ra sẽ bị vận chuyển lên phía Bắc và nhanh chóng lắng đọng xuống đáy biển mà không thể tồn tại từ mùa hè qua mùa đông để bị vận chuyển qua lại và lắng đọng xuống khu bảo tồn biển Hòn Cau hoặc các khu vực có tầm quan trọng về môi trường, sinh thái khác.

NGUYỄN LÊ (lược trích)