Phạm Nhữ Tăng và công cuộc Nam chinh mở cõi
* KỲ 1: MỞ MANG BỜ CÕI
(Cadn.com.vn) - Năm 1471, Phạm Nhữ Tăng dẫn đầu đạo quân cùng với vua Lê Thánh Tông đích thân chinh phạt Chiêm Thành. Sau khi đại thắng, bờ cõi nước Nam mở rộng đến Khánh Hòa (ngày nay) và ông được đức vua cho trấn giữ tại thành Bình Định. Sau khi mất, thi hài ông được đưa về an táng tại làng Hương Quế (nay thuộc xã Hương An, H. Quế Sơn, Quảng Nam). Khi làm lễ an táng, đích thân vua Lê Thánh Tông ngự giá đến chỉ đạo việc hậu sự và lưu bút tích bằng hai câu đối: "Nghĩa sĩ uẩn cơ mưu, hiệp lực nhất tâm bình Chiêm quốc/ Miếu đài khai tráng lệ, hương hồn thiên cổ hiển Nam bang"…
Theo gia phả của dòng họ Phạm và nhiều tư liệu lịch sử cho thấy, Phạm Nhữ Tăng (1422 - 1478) là con trai của Phạm Nhữ Dự - người có công giúp Lê Lợi đánh đuổi quân Minh; là cháu nội Phạm Nhữ Dực, người từng giữ chức Chánh đô án vũ sứ phụ trách di dân ở khu vực Quảng Nam - Quảng Ngãi dưới triều Hồ Hán Thương (1401). Từ đầu thế kỷ XV, người họ Phạm từ phía Bắc vào định cư ở đất Thăng Hoa (Quảng Nam ngày nay), Phạm Nhữ Tăng được sinh ra và lớn lên tại vùng đất này.
Hai câu đối phía trước mộ của ông Phạm Nhữ Tăng do vua Lê Thánh Tông ngự bút. |
Lật từng trang gia phả của dòng tộc, ông Phạm Nhữ Trợ - Chủ tịch Hội đồng gia tộc Phạm Nhữ, cháu đời thứ 17 của ông Phạm Nhữ Tăng cho biết: Vào năm Đại Hòa thứ ba (1445) triều vua Lê Nhân Tông, Phạm Nhữ Tăng thi đỗ đệ nhị Điện hoằng Từ khoa, được phong làm Thái bảo, kiêm Tri quân Dân chính Sự vụ. Năm 1460, ông là Nghĩa sĩ tham gia xướng nghĩa cùng các trung thần Nguyễn Xí, Lê Quyết Trung, Lê Nhân Thuận, Lê Niệm, Đinh Liệt,... dẹp hàng trăm loạn đảng, phế Lê Nghi Dân, rước Lê Thánh Tông lên ngôi vua...
Những năm đầu triều đại nhà Lê, vua nước Chămpa là Trà Toàn có mưu đồ muốn "sinh sự" với nước Đại Việt. Một mặt, Trà Toàn cử người sang cầu viện nhà Minh, một mặt cho quân liên tục quấy nhiễu bờ cõi, biên cương của Đại Việt. "Đánh cướp Hóa Châu, giết hại binh thú gần hai tháng mịt mù khói lửa, họa tày trời ta mới dẹp yên..."- trích bài Chiếu bình Chiêm của vua Lê Thánh Tông. Trước tình hình đó, đích thân nhà vua chỉ huy binh mã, cất quân sang Chămpa hỏi tội Trà Toàn. Lúc này, Phạm Nhữ Tăng được vua Lê Thánh Tông phong làm Trung quân Đô thống, lãnh ấn tiên phong, chỉ huy 20 vạn quân. Mùa xuân năm Hồng Đức thứ hai (1471), vua Lê Thánh Tông hạ chiếu bình Chiêm. Ông dẫn đạo tiên phong, phát pháo xuất quân, mở cửa thành, thượng đại kỳ thêu bốn chữ "Bình Chiêm hưng quốc". Vua Lê Thánh Tông ngự giá thân chinh theo sau...
Trước khi tấn công đánh vào cửa Thi Lị Bị Nại (tức cửa Thị Nại - Quy Nhơn ngày nay), vua Lê Thánh Tông sai các võ tướng cho người ngầm vẽ địa đồ kỹ lưỡng. Nhờ vậy mà tướng sĩ của Đại Việt do Phạm Nhữ Tăng chỉ huy đã nhanh chóng buộc quân Chămpa phải bỏ Thi Lị Bị Nại chạy vào cố thủ ở kinh thành Vijaya (Còn gọi là thành Đồ Bàn, tức thành Bình Định hiện nay). Thừa thắng xông lên, võ tướng Phạm Nhữ Tăng cho quân bao vây, phá thành Đồ Bàn, tiêu diệt quân Chiêm, bắt sống Trà Toàn. Tướng Chămpa là Bô Trì Trì phải chạy tháo thân về đất Phan Lung xưng chúa rồi cho sứ sang dâng sớ lên triều đình ta xin cống. Ngày mồng 1 tháng 3 năm Hồng Đức thứ 2 (Tân Tỵ - 1471), nước Đại Việt được mở đến núi Thạch Bi Sơn (tức khu vực giáp ranh 2 tỉnh Phú Yên - Khánh Hòa ngày nay).
Sau khi đại sự hoàn thành, vua cho thành lập Thừa tuyên Quảng Nam kéo dài từ đèo Hải Vân vào đến Thạch Bi Sơn. Đô Thống phủ của Thừa tuyên Quảng Nam lúc ấy đặt tại thành Đồ Bàn. Phạm Nhữ Tăng được vua Lê Thánh Tông cử lưu trấn tại thành Bồ Bàn, giữ vững an ninh, tổ chức di dân mở đất, lập làng xã và được trao chức Đô ty Quảng Nam kiêm trấn phủ Hoài Nhân (Đô Thống phủ). Với chức Đô ty Quảng Nam, ông tập trung cho việc phát triển phủ Thăng Hoa, cho lập địa bạ (sổ ruộng đất). Ngoài ra, ông cùng các bậc tiền bối các tộc Nguyễn, Trần, Lê có công khai khẩn tạo lập Ngũ Hương gồm 5 làng: Hương Quế, Hương Lộc, Hương An, Hương Yên và Hương Lư (nay thuộc xã Quế Phú và Hương An, H. Quế Sơn)...
Ở tại thành Bồ Bàn được hơn 6 năm thì ông bị bệnh. Theo gia phả dòng họ Phạm, khi hay tin ông bị bệnh, vua đã cho Thái y đến nơi chăm lo thuốc thang, nhưng không qua khỏi. Ông mất ngày 21-2 đời Hồng Đức thứ tám (1478). Sau khi ông mất, vua Lê Thánh Tông lấy làm thương tiếc, bèn hạ chiếu rằng: "Khanh là người có công mở mang bờ cõi, phục vụ ba triều, đã vì triều đình coi trọng, vì đất nước an nguy, song khanh số sống đã tận, sức cùng không chữa được, thọ bệnh mà chết. Ta đây lòng không yên. Khanh khi sống vì nghĩa mà vô tư, vì nước mà ra sức. Ta đối với khanh rất nặng tình, sáu năm yêu nước mến vua, nếm mật nằm gai, con cháu ngày sau thừa hưởng".
Ông Phạm Nhữ Trợ bên ngôi mộ của ông Phạm Nhữ Tăng. |
Di hài ông được an táng tại Trường Xà thành, cách thành Bồ Bàn khoảng 6km về phía tây. 6 tháng sau, vua cho dời hài cốt ông về làng Hương Quế, cho xây lăng mộ và cấp tự điền cho xã dân lo việc phụng tự. Vua ban sắc gia phong ông là Hoằng Túc Trợ Võ, Đặc tấn Phụ quốc, Quảng Dương hầu, Phạm quý công Đại phu. Vua ngự bút câu đối trước mộ: Nghĩa sĩ uẩn mưu cơ, hiệp lực nhất tâm bình Chiêm quốc.
Miếu đài khai tráng lệ, hương hồn thiên cổ hiển Nam bang. Nghĩa là: Nghĩa sĩ lắm mưu cơ, góp sức một lòng bình Chiêm quốc. Miếu đài thêm rạng rỡ, hương hồn ngàn thuở rạng trời Nam. Hiện câu đối hai bên mộ này vẫn còn. Về sau, vua Lê Thần Tông, niên hiệu Dương Hòa sắc phong ông là Chánh ngự Nam phương Phạm phủ quân phò Hựu thượng Đẳng thần.
Với địa thế "Lục long tranh chầu", ngôi mộ của danh tướng Phạm Nhữ Tăng phía trước nhìn ra Bàu Sanh, nơi có dòng nước quanh năm chảy, phía sau tựa vào ngọn Núi Quế. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử và tác động của chiến tranh, ngôi mộ của ông dần hư hỏng, xuống cấp nên đã qua 3 lần trùng tu sửa chữa vào các năm 1957, 1969, 1996.
Bão Bình-Mai Hân
(còn nữa)