Phiên tòa xét xử Hà Văn Thắm và các đồng phạm: Công bố Văn bản số 7522 của Ngân hàng Nhà nước

Thứ hai, 25/09/2017 10:38

Sáng 24-9, tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã công bố Văn bản số 7522 của Ngân hàng Nhà nước trả lời các luật sư, trong đó nêu rõ: Việc ban hành Thông tư số 02/2011/TT-NHNN là có đầy đủ cơ sở pháp lý, phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng.

Trước đó, chiều 23-9, luật sư bào chữa cho các bị cáo tiếp tục đưa ra nhiều luận điểm đối đáp lại với Viện kiểm sát, trong đó “nóng” nhất là những lập luận của luật sư cho rằng sự ra đời của Thông tư 02 là vi phạm Bộ luật Dân sự và vi hiến.

Ngày 24-9, TAND TP Hà Nội tiếp tục phiên xét xử sơ thẩm bị cáo Hà Văn Thắm (1972, nguyên Chủ tịch Hội đồng Quản trị Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Dương - OceanBank) và 50 bị cáo khác. Hội đồng xét xử cho phép các bị cáo nói lời sau cùng trước khi tòa tuyên án vào ngày 29-9-2017. Trong ảnh: Bị cáo Đỗ Đại Khôi Trang, nguyên Giám đốc Khối Khách hàng cá nhân Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Dương. Ảnh: DOÃN TẤN

Nhiều tranh cãi về Thông tư 02

Thông tư 02 do Ngân hàng Nhà nước ban hành ngày 3-3-2011 quy định về lãi suất huy động vốn tối đa bằng đồng Việt Nam do Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Đồng Tiến ký. Trong đó quy định: Tổ chức tín dụng ấn định lãi suất huy động vốn bằng đồng Việt Nam (lãi suất tiền gửi; lãi suất chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và trái phiếu) của các tổ chức (trừ tổ chức tín dụng) và cá nhân bao gồm cả khoản chi khuyến mãi dưới mọi hình thức không vượt quá 14%/năm; riêng các Quỹ Tín dụng nhân dân cơ sở ấn định lãi suất huy động vốn bằng đồng Việt Nam không vượt quá 14,5%/năm.

Mức lãi suất huy động vốn tối đa này áp dụng đối với phương thức trả lãi cuối kỳ; đối với các phương thức trả lãi khác, phải được quy đổi theo phương thức trả lãi cuối kỳ tương ứng với mức lãi suất huy động vốn tối đa. Cũng trong Thông tư 02 có quy định: “Nghiêm cấm tổ chức tín dụng thực hiện khuyến mãi huy động vốn bằng tiền, lãi suất và các hình thức khác không đúng với quy định của pháp luật và Thông tư này”.

Bào chữa cho bị cáo Hoàng Bích Vân, luật sư Huyền Trang dẫn chứng trong nhóm hành vi “Cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”, Viện kiểm sát khẳng định khách thể của tội danh này là Thông tư 02. Luật sư Huyền Trang cho rằng, sự ra đời của Thông tư 02 là vi phạm Bộ luật Dân sự và vi hiến.

Cụ thể, luật sư Huyền Trang đưa ra quan điểm: Thông tư 02 vi phạm các Điều luật quy định về tự do thương mại theo Luật thương mại, Vi phạm Điều 7 Luật Doanh nghiệp và đặc biệt vi hiến ở chỗ Thông tư 02 vi phạm Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008. Theo luật sư Huyền Trang, Thông tư 02 là do Phó Thống đốc ký ban hành mà không có một văn bản ủy quyền nào từ Thống đốc. Theo quy định, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước có quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật dưới hình thức Thông tư. Luật sư Huyền Trang cho rằng: Việc không được Thống đốc ủy quyền mà Phó Thống đốc vẫn ký ban hành Thông tư 02 là vi phạm Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008. Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xem xét Thông tư 02 là văn bản quy phạm pháp luật hay văn bản quy phạm dưới luật?

Không thể coi hành vi chi lãi ngoài là biện pháp chính đáng

Ngày 24-9, tham gia đối đáp tại phiên tòa xét xử Hà Văn Thắm và các đồng phạm, đại diện Viện kiểm sát đã đưa ra nhiều luận điểm chứng minh hành vi vi phạm của các bị cáo và khẳng định: “Không thể coi hành vi chi lãi ngoài là biện pháp chính đáng”. Phân tích về tội “Cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” theo quy định tại Điều 165 - Bộ luật Hình sự, đại diện Viện kiểm sát bảo lưu quan điểm các bị cáo đã vi phạm Điều 165 qua việc chi lãi ngoài. Số tiền này được lấy từ các tài khoản phục vụ cho ngân hàng và được chi vào hoàn ứng không có chứng từ hợp lệ, rút tiền chi cho các cá nhân không có hóa đơn chứng từ, không có khả năng thu hồi, vi phạm các quy định của Nhà nước, trong đó có Thông tư 02 năm 2011 của Ngân hàng Nhà nước. Đại diện Viện kiểm sát cũng khẳng định quá trình điều tra, xác định hành vi vi phạm của các bị cáo, việc đánh giá các chứng cứ dựa trên quy định của pháp luật và tư duy logic dựa trên mối quan hệ biện chứng, trong đó kết luận giám định của Ngân hàng Nhà nước cũng chỉ là một trong các chứng cứ.

KIM ANH – NGUYỄN CÚC

Nhầm lẫn khái niệm lãi suất tiền gửi của các tổ chức tín dụng

Trong Văn bản số 7522 của Ngân hàng Nhà nước trả lời các luật sư, Ngân hàng Nhà nước đã phân tích Điều 471 - Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về Hợp đồng vay tài sản, Điều 476 Bộ luật Dân sự 2005 quy định về lãi suất vay như sau: “Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng. Trong trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ”.

Mặt khác, Ngân hàng Nhà nước cũng đã viện dẫn tại khoản 2, Điều 3 Luật các Tổ chức tín dụng về nguyên tắc áp dụng Luật các tổ chức tín dụng và các luật có liên quan đã quy định: Trường hợp có quy định khác nhau giữa Luật này và các luật khác có liên quan về thành lập, tổ chức, hoạt động, kiểm soát đặc biệt, tổ chức lại, giải thể tổ chức tín dụng thì áp dụng theo quy định của Luật này.

Như vậy, theo Ngân hàng Nhà nước, hoạt động nhận tiền gửi của các tổ chức tín dụng không phải là hoạt động cho vay trong hoạt động cho vay tài sản. Việc huy động tiền gửi của các tổ chức tín dụng được thực hiện theo quy định của Luật các Tổ chức tín dụng. Lãi suất tiền gửi được thực hiện theo Luật các tổ chức tín dụng và Thông tư số 02/2011/TT-NHNN quy định về lãi suất huy động vốn của tổ chức tín dụng đối với khách hàng.

Do đó, Ngân hàng Nhà nước khẳng định: Các luật sư đã nhầm lẫn khái niệm lãi suất tiền gửi của tổ chức tín dụng chịu sự điều chỉnh của trần lãi suất cho vay trong hợp đồng vay tài sản theo Điều 476 Bộ luật Dân sự 2005.

Cơ sở pháp lý ban hành Thông tư 02

Về cơ sở pháp lý ban hành Thông tư 02, Ngân hàng Nhà nước đã viện dẫn khoản 2, Điều 12 Luật Ngân hàng Nhà nước 2010 quy định về công bố lãi suất: “Trong trường hợp thị trường tiền tệ có diễn biến bất thường, Ngân hàng Nhà nước quy định cơ chế điều hành lãi suất áp dụng trong quan hệ giữa các tổ chức tín dụng với nhau và với khách hàng, các quan hệ tín dụng khác”.

Đồng thời, tại khoản 3, Điều 91, Luật các tổ chức tín dụng quy định về lãi suất, phí trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng cũng quy định: “Trong trường hợp hoạt động ngân hàng có diễn biến bất thường, để bảo đảm an toàn của hệ thống tổ chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước có quyền quy định cơ chế xác định phí, lãi suất trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng”.

Công văn của Ngân hàng Nhà nước khẳng định: Như vậy, việc ban hành Thông tư 02 là hoàn toàn phù hợp với Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng như đã dẫn chứng ở trên. Thực tiễn triển khai Thông tư 02 và Chỉ thị 02 trong năm 2011 và năm 2012 cho thấy đây là biện pháp hiệu quả đã góp phần ổn định thị trường tiền tệ và hoạt động ngân hàng, cơ bản khắc phục được tình trạng huy động vốn vượt trần, mặt bằng lãi suất của hệ thống tổ chức tín dụng có xu hướng giảm, qua đó góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng.

Việc cử người tham gia giám định là đúng quy định pháp luật

Trong Công văn số 7522, Ngân hàng Nhà nước cũng đã có ý kiến về công tác giám định của Ngân hàng Nhà nước liên quan đến vụ án Hà Văn Thắm và các đồng phạm. Trong đó, nêu rõ Cơ quan cảnh sát điều tra, Bộ Công an đã có quyết định trưng cầu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện giám định vụ việc này. Trên cơ sở Quyết định trưng cầu giám định đó, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ra Quyết định cử 9 người tham gia giám định vụ việc. Như vậy, việc Ngân hàng Nhà nước cử người giám định theo vụ việc để thực hiện giám định theo Quyết định trưng cầu của cơ quan cảnh sát điều tra – Bộ Công an là hoàn toàn phù hợp với quy định tại Luật Giám định tư pháp.

Về việc một số thành viên Tổ Giám định tư pháp của Ngân hàng Nhà nước đồng thời cũng là thành viên Đoàn thanh tra tại OceanBank trong thời gian xảy ra vụ án, Ngân hàng Nhà nước đã phân tích dựa trên căn cứ Điều 34 của Luật Giám định tư pháp năm 2012 quy định về các trường hợp không được thực hiện giám định tư pháp; Điều 60 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 quy định về những trường hợp người giám định phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi; Điều 42 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 quy định về những trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng. Trên cơ sở đó đã kết luận: Việc Ngân hàng Nhà nước cử một số người là thành viên Đoàn thanh tra làm thành viên Tổ giám định tư pháp là không trái với quy định.

Về địa điểm thực hiện giám định, Ngân hàng Nhà nước đã viện dẫn Điều 32, khoản 1, điểm h - Luật Giám định tư pháp quy định về nội dung: Kết luận giám định phải bao gồm nội dung về thời gian, địa điểm thực hiện, hoàn thành việc giám định, Luật Giám định tư pháp không quy định địa điểm để thực hiện giám định. Do vậy, Ngân hàng Nhà nước thấy ý kiến của luật sư cho rằng bản kết luận giám định không tuân thủ quy định pháp luật về địa điểm giám định là không có cơ sở.

THU THỦY – TTXVN