Ui… Núm son
Biết anh từ ngày tóc xanh giờ phanh phơ tóc bạc. Rồi cái tên Hạt Phong Trần nghe cũng rất phong trần nhưng đó lại là tên một tập thơ lục bát của anh, xuất bản năm 2012. Duyên nợ thế nào anh chọn làm bút danh của mình luôn từ đó. Tự nhận mình là Hạt như lời anh đại ý, thơ mình nảy mầm từ hạt lúa, hạt mưa, hạt nắng, hạt cát, hạt đất, hạt gió, hạt sương, hạt mồ hôi, hạt nước mắt…, để anh có được "Hạt Phong Trần".
Trông vẻ ngoài anh rất phong trần, nghệ sĩ, xông xáo mọi ngả đường trên con ngựa sắt chung thủy, chiếc ba lô, cái võng dù… theo anh bất cứ đâu, nhất là mỗi khi anh làm những cuộc trở lại dọc đường biên vùng rừng núi xứ Quảng. Bởi nơi đây anh từng thời gắn bó một thời gian khó với ngành lâm nghiệp, trước khi làm báo, nhiếp ảnh, làm thơ, viết văn.
Dù đã được đôi người giới thiệu về tập thơ mới nhất anh vừa cho ra mắt bạn đọc nhưng mãi khi từ phố Đà Nẵng vào Tam Kỳ gọi uống cà phê, ký tặng tôi vẫn phải bất ngờ: Ui…Núm Son!
Là tập thơ thứ ba anh vẫn thủy chung với thể lục bát. Đọc thơ lục bát của anh phải nhìn nhận đúng là anh viết rất có nghề, không nhạt và nhàm chán. (Bởi thơ lục bát viết rất khó hay). Cái thú với anh là nhìn đâu cũng ra lục bát, lục bát ăn vào máu thịt của anh như lời tâm sự: "Lục bát đã ám mình khi đặt bút xuống giấy". "Chừ mang cái chữ rong chơi/ Cũng là hạnh phúc Hạt tôi Phong Trần" (Ngoằn ngoèo)
Hơn 100 bài lục bát anh chọn in trong tập "Núm Son" là khu vườn thơ dân dã, đa âm sắc, có sức gợi cảm xúc bạn đọc về những liên tưởng thú vị, có duyên và đời. Với tôi, thích nhất thơ anh là câu chuyện tình yêu, ký ức, vẻ đẹp giai nhân, những tình cờ thoáng qua… để con chữ cứ nung nấu xuất tuôn ra đầu ngọn bút.
Ví như trong nhớ về một chuyện yêu người anh có câu thơ xuất thần, sáng lên trong sự giản dị của câu chữ, hình ảnh thơ truyền thống: "Ngày xưa tiễn bước chân em/ Hôn liều một cái nghe đêm giật mình". (Bài ngày xưa). Có lần đùa vui, thay chữ "Hôn" bằng chữ "Phát" nghe ra cũng thú vị đáo để. Anh cười, cái nụ cười lão niên giống kinh khủng hậu duệ nhà văn Nguyễn Tuân.
Thế rồi, những tiếc nuối ngày xưa vẫn là chuyện của ngày xưa: "Mùa xuân rơi chút mây hồng/ Để ngày xưa ấy cứ bồng bềnh trôi"…Và anh cũng trôi đi trong trời đất, những đắm đuối nghề, rong ruổi đó đây khi tuổi đã về chiều.
Thêm nữa, có lẽ theo nghề nhiếp ảnh, nên anh có những câu thơ "bấm máy" khá độc, lạ, những ý thơ đột ngột xuất hiện, tạo những mạch hồ nắm níu khó cưỡng. Bài thơ "Ngầm đôi" chỉ hai câu nhưng đã khắc họa được một cảnh quê định vị cũ mềm nhưng vào thơ lại rất lạ. "Chênh vênh một cái ngầm đôi/ Có hai sợi nước cột tôi chân đèo/ Mấy vần cổ tích cheo leo/ Tiếng chim trói cột cố trèo qua đêm"
Cách dùng từ trong thơ anh cũng có cái ngồ ngộ hơi hướng giẫm phải gót chân thi sĩ lang bạc tài tử họ Bùi. "Nhớ hồi em núm tui ơm/ Gánh gồng luôn cả mùa thơm về nhà" hay "Mắt môi Quế Lộc quê mình/ Gặp nhau là bất thình lình muốn thơm". (Bài chợ Thơm)
Nhiều câu thơ, bài thơ thật sự xúc động khi anh viết về mẹ, về cha, những người kề cận thân yêu của một thời gian khó. Những câu thơ có sức ám ảnh, neo lại trong lòng người đọc về hình ảnh quê nhà thuần hậu: "Chao ôi cái sợi tóc thề/ Treo tôi giữa cái ngõ quê một thời" (Bài sợi tóc thề); "Bếp quê nhớ ngọn củi tàn/Cơm sôi như tiếng thở than của mùa" (Bài lời quê ); "Lẽ nào ở mãi trong thơ/ Bước ra đi để dại khờ bút nghiên/ Đường may múi chỉ là duyên/ Nghìn năm níu giữa cái triên yếm đào" (Bài đâu rồi yếm).
Đồng cảm nhận xét nhà văn Nguyễn Thị Bích Hiền, khi đọc Núm son của nhà thơ Huỳnh Trương Phát: Rõ ràng ngôn từ thơ chỉ khắc họa cảnh vật thiên nhiên nhưng đằng sau ấy là cả một trái tim giàu yêu thương, đồng cảm và giao cảm để cuối cùng người đọc nhìn thấy ở thiên nhiên cả một thế giới tinh thần đa dạng, tinh tế. Ấy chính là tầng sóng dội vang đầy nghệ thuật mà người thơ mang lại sau khi trải lòng trên những con chữ".
Võ Văn Trường








