Cần bảo vệ khai thác hiệu quả những hồ nước ở Đà Nẵng
(Cadn.com.vn) - Ngoài biển, sông thì ao hồ là tài sản thiên nhiên quý giá của mỗi đô thị, trong đó có Đà Nẵng. Nó không chỉ là nơi điều tiết nước mưa, là "cái rốn" để hút nước khi ngập lụt, tạo cảnh sắc thiên nhiên mà còn là lá phổi của thành phố, là máy điều hòa khí hậu khổng lồ của nhân dân đô thị…
Đà Nẵng hiện có hơn 40 hồ, đầm lớn nhỏ nằm rải rác với tổng diện tích mặt nước 1,8 triệu m2, dung tích chứa nước tối đa hơn 3 triệu m3. Ngoài số rất ít là hồ công viên đúng nghĩa thì đa số là các hồ ở Đà Nẵng giữ vai trò là hồ điều tiết, đặc biệt là vào mùa mưa, khi lưu lượng nước lớn. Nó có nhiệm vụ điều tiết (tăng và giảm) lưu lượng dòng chảy nước mưa một cách tự nhiên nhằm chống ngập úng và giảm chi phí xây dựng, quản lý hệ thống thoát nước. Ngoài ra, hồ còn có thể điều tiết lưu lượng để phục vụ cho mục đích tưới tiêu trong sản xuất nông nghiệp, bảo vệ môi trường…
Các hồ nước trong thành phố hiện nay đều được sử dụng để điều hòa nước mưa và chứa nước thải. Tuy nhiên thực tế là hiệu quả điều tiết của nhiều hồ còn chưa cao do hệ thông kênh thoát nước chưa đủ khẩu độ, một số hồ mực nước thường xuyên duy trì ở mức cao cho mục đích vui chơi giải trí, tạo cảnh quan làm giảm dung tích điều tiết nước mưa. Bên cạnh đó, hiện tượng bồi lắng ở các hồ cũng khá phổ biến. Tình trạng lấn chiếm lòng hồ và sử dụng hồ với mục đích khác làm giảm khả năng điều hòa của các hồ. Ngoài ra, diện tích hồ điều tiết rất nhỏ so với tổng diện tích thành phố nên ảnh hưởng điều tiết nước mưa của hệ thống là không đáng kể và tình trạng ngập úng vẫn xảy ra thường xuyên, ngay cả khi chỉ mới xuất hiện vài cơn mưa lớn mang tính cục bộ.
Hồ Thạc Gián (Đà Nẵng). |
Thực tế cho thấy, những năm trước đây, nguồn nước trên các sông hồ ở TP Đà Nẵng đều bị ô nhiễm nghiêm trọng, điển hình là sông Phú Lộc, khu vực Đầm Rong, hồ Đảo Xanh, hồ Công viên 29-3, hồ Thạc Gián. Hầu hết nước trong các hồ ít trong xanh, nhiều rác thải và một số nơi còn có mùi hôi rất nặng. Nguyên nhân chính là do các hồ ngày ngày phải nhận các loại rác thải, nước thải sinh hoạt của người dân đổ về. Thêm vào đó, lượng bùn lắng trong các hồ rất cao, năng lực tiếp nhận các chất này trong nhiều hồ đã quá tải. Việc quản lý hồ còn bị buông lỏng, khiến cho diện tích các hồ ngày càng bị thu hẹp, chất lượng nước hồ đang bị ô nhiễm, có nơi khá nghiêm trọng mà thỉnh thoảng là hiện tượng cá chết nổi trắng ở một số hồ nước, điển hình là vụ cá chết trên hồ Công viên 29-3 cách đây chưa lâu.
Tuy chưa đến mức báo động, nhưng có thể nhận thấy là hiện tượng ô nhiễm nước ao, hồ và bồi lắng bùn đáy đang là vấn đề bức bách cần sớm giải quyết. Hầu hết các hồ ở Đà Nẵng đều có nước thải chảy vào, tuy đảm bảo chức năng điều hòa, điều tiết nhưng lại chưa có hệ thống xử lý nguồn nước, nên nguy cơ bị ô nhiễm là rất cao. Hiện tượng các hồ bị tảo xanh, tảo độc khá phổ biến. Bên cạnh đó, rác thải sinh hoạt thải đổ không đúng quy định cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến gia tăng ô nhiễm ao, hồ.
Về giải pháp, cần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của công tác quản lý môi trường các hồ nước trong thành phố, đặc biệt là ý thức của cộng đồng, nhất là của những cư dân sống lân cận khu vực hồ. Từ đó mới có cơ sở để hạn chế, tiến tới ngăn chặn các hành vi xâm phạm, lấn chiếm và gây ô nhiễm môi trường nước hồ, tái tạo cảnh quan mặt nước, góp phần xây dựng một Đà Nẵng xanh-sạch -đẹp như mục tiêu đã đề ra. Nguồn ô nhiễm chủ yếu là từ các cống dẫn nước thải thành phố đổ tùy tiện vào hồ và một phần do nước mưa làm kéo xuống hồ biết bao đất cát và rác thải (kể cả không ít rác thải mà những kẻ vô ý thức đã tùy tiện ném xuống hồ). Vì vậy, cần nghiêm cấm san lấp, lấn chiếm, gây ô nhiễm hồ, xả chất thải chưa qua xử lý ra môi trường; sử dụng diện tích công viên, vườn hoa công cộng sai chức năng, mục đích. Việc cải tạo hồ bị ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt phải phù hợp với quy định về kiến trúc, cảnh quan, môi trường của thành phố.
Cần xác định, trách nhiệm chính của tình trạng ô nhiễm môi trường nước hồ thuộc về chính quyền, đặc biệt là chính quyền cấp cơ sở, từ đó đưa ra các phương án để từng bước hạ thấp tỷ lệ ô nhiễm của "lá phổi" thành phố. Nên chăng giao các cơ quan chuyên môn, cụ thể là Công ty Công viên-Cây xanh nghiên cứu, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật để bảo vệ và duy trì môi trường cảnh quan của các hồ nước trong thành phố, nhất là các hồ công viên, chẳng hạn như trồng loại hoa vàng và đỏ thuộc họ Rong riềng. Đây là loại cây có rễ dài và có thể hấp thu mạnh mẽ các chất hữu cơ và vô cơ có chứa trong nước thải. Hoặc cách chọn một góc hồ để trải các thảm xốp nổi trên bề mặt với những lỗ nhỏ gài cây hoa nói trên vào và tạo thành một vườn hoa trên hồ.
Hoa nở rất đẹp và rễ sâu tới 60cm nên làm sạch nước hồ rất nhanh. không nên dùng Bèo lục bình (Bèo Nhật Bản) vì loại bèo này phát triển quá nhanh, chiếm hết mặt hồ, không tạo cảnh đẹp, hết chỗ bơi thuyền và nhất là rễ của chúng không dài như loài hoa kia. Về lâu dài, cần tiến tới việc xử lý nước thải trước khi cho chảy vào hồ lớn, nước thải được tập trung trong một hồ nhỏ và xử lý bằng chế phẩm vi sinh vật để phân hủy nốt các chất hữu cơ còn sót lại và làm giảm đi mạnh mẽ các chỉ số về BOD, COD, NH3, NO2, NO3, SH2… Làm cách này còn giải quyết được tình trạng gọi là Nước nở hoa- nghĩa là các loại vi tảo gặp nhiều thức ăn hữu cơ đã phát triển lên quá mức trên mặt nước.
Về các hồ giữ vai trò điều tiết, cần tận dụng tối đa các hồ tự nhiên và nâng cao dung tích điều hòa bằng cách tăng độ sâu; bố trí hợp lý về quy mô và vị trí hồ điều tiết để phát huy tối đa hiệu quả; lợi dụng tổng hợp hồ điều tiết làm giảm ngập úng, tạo cảnh quan và nuôi trồng thủy sản để nâng cao hiệu quả kinh tế, có thể xã hội hóa đầu tư. Đi vào các giải pháp mang tính kỹ thuật cụ thể: Cần có cửa van điều tiết dòng chảy vào và ra khỏi hồ, đóng mở hợp lý để điều tiết tốt nhất; cần ngăn chặn rác và bồi lắng tại các cống ra vào hồ. Ngoài ra, cần quan tâm cải tạo, nạo vét thường xuyên nhằm đảm bảo duy trì dung tích điều hòa, chống lấn chiếm thu hẹp lòng hồ, chống ô nhiễm môi trường nước trong hồ; tăng độ sâu hồ ở mức cần thiết...
Ngoài ra, về các giải pháp phi công trình, cần có quy trình vận hành hợp lý, có thể tự động hóa trong việc vận hành đóng mở cửa cống; cân đối giữa các lợi ích sử dụng hồ chứa như điều tiết nước mưa, nuôi trồng thủy sản, vui chơi giải trí. Tuyên truyền, vận động người dân xung quanh hồ có ý thức bảo vệ hồ, cắm các biển báo; tăng lưu lượng tiêu qua các cống thoát chảy ra sông gần nhất, tránh dòng chảy dồn cục bộ.
Hồ nước có vai trò quan trọng trong đô thị, chính quyền và người dân cần có hành động bảo vệ, duy trì và mở rộng các hồ điều hòa, giữ môi trường trong lành trong các hồ công viên, cảnh quan. Một khi điều kiện khí hậu biến đổi theo chiều hướng cực đoan và đô thị mở rộng không ngừng như hiện nay thì vai trò của hồ nước trong đô thị lại càng phải được quan tâm hơn bao giờ hết.
Dân Hùng