Cần nhận thức đầy đủ về liên kết vùng
(Cadn.com.vn) - Vấn đề phát triển kinh tế vùng, liên kết vùng kinh tế thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, chuyên gia, lãnh đạo các ban, bộ, ngành, các Ban Chỉ đạo Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ; lãnh đạo các tỉnh, thành phố trong cả nước; đại diện các tổ chức quốc tế, các Đối tác phát triển tại Việt Nam tại Hội thảo quốc tế “Liên kết vùng trong quá trình tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng của Việt Nam”.
Hội thảo do Ban Kinh tế Trung ương, Đại sứ quán Đức tại Việt Nam; Ban Điều phối vùng Duyên hải miền Trung tổ chức sáng 3-4.
Thúc đẩy phát triển kinh tế vùng và liên kết vùng
Phát biểu chỉ đạo tại Hội thảo, ông Vương Đình Huệ, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Kinh tế Trung ương nêu rõ: Vấn đề kinh tế vùng và liên kết vùng đã được Đảng và Nhà nước Việt Nam nhận thức rất sớm, ngay từ Đại hội Đảng lần thứ VIII. Đại hội Đảng lần thứ IX, X, XI đều tiếp tục xác định rõ định hướng chiến lược phát triển vùng. Mặc dù đã đạt được một số kết quả nhất định, tuy nhiên, quá trình triển khai thực hiện chủ trương, cơ chế, chính sách phát triển kinh tế vùng, cũng còn nhiều hạn chế. Chúng ta chưa nhận thức đầy đủ phát triển kinh tế vùng như một quy luật tự thân của kinh tế thị trường theo không gian kinh tế; là phát triển mối quan hệ giữa không gian kinh tế với không gian tự nhiên, sinh thái, xã hội và không gian chính sách, thể chế để tạo ra lợi thế cạnh tranh động cho vùng, quốc gia, là cơ sở phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Cách phân vùng kinh tế - xã hội còn nhiều mặt hạn chế để phát huy lợi thế so sánh từng vùng. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng và quy hoạch ngành theo vùng như hiện nay chưa thực sự là công cụ hữu hiệu trong định hướng, điều phối, phân bổ ngân sách, thu hút đầu tư, quản trị không gian kinh tế - xã hội, đặc biệt là thực hiện vai trò ràng buộc liên kết nội vùng...
Bày tỏ ủng hộ vấn đề thúc đẩy điều phối vùng tại Việt Nam, Ngài Carl Georg Christian Berger, Đại sứ Cộng hòa Liên bang Đức tại Việt Nam tin rằng: điều phối vùng đủ mạnh sẽ mang tiềm năng to lớn trong việc giải quyết các vấn đề nằm ngoài tầm ảnh hưởng của các địa phương; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội tại Việt Nam. Nhấn mạnh điều phối vùng mang lại lợi ích việc phát triển kinh tế vùng gắn với bảo vệ môi trường, Đại sứ cho rằng cần coi quá trình liên kết vùng như một cơ hội. Đây cũng là cơ hội cho các tỉnh và vùng cùng nhau phối hợp, thúc đẩy phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường.
Bà Victoria Kwakwa, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam nhấn mạnh: Sự tăng trưởng của Việt Nam trong những thập kỷ vừa qua đã đạt được những thành tựu quan trọng nhưng cũng đặt ra không ít thách thức. Vì vậy, việc điều phối vùng mạnh mẽ hơn để tối ưu hóa được các tiềm năng to lớn của Việt Nam là rất cần thiết và cấp bách. Bà khẳng định: Ngân hàng Thế giới sẵn sàng phối hợp với các tổ chức quốc tế và Chính phủ Việt Nam để triển khai hiệu quả nhằm thúc đẩy, phát triển vùng và điều phối vùng ở Việt Nam.
Khô hạn – một trong những vấn đề cấp bách hiện nay mà từng địa phương không giải quyết được, đòi hỏi phải có tư duy liên kết vùng. Trong ảnh: Hồ Đăk Sen (Đăk Nông) trơ đáy dù mới bước vào mùa khô. Ảnh: M.Q |
Đề xuất các cơ chế, chính sách
Tại hội thảo, các đại biểu nêu rõ: nhiều vấn đề cấp bách cấp vùng hiện nay nổi lên mà từng địa phương không thể giải quyết được một cách hiệu quả như: biến đổi khí hậu và xâm nhập mặn ở vùng đồng bằng sông Cửu Long; khô hạn và quản lý nguồn nước ở Tây Nguyên; quản lý rừng và sinh thái vùng miền núi phía Bắc; phát triển hạ tầng, quản lý ô nhiễm và đầu tư ở các vùng kinh tế trọng điểm; phát triển vùng phía tây miền Trung; phát triển các vùng ven biển hải đảo, bãi ngang. Trên cơ sở đó, các đại biểu đã tập trung trao đổi, thảo luận nhấn mạnh: quá trình tái cơ cấu kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo vùng cần được xác định như: một bộ phận của tái cơ cấu kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng quốc gia; là cách thức để tạo ra các mũi nhọn, các “cực tăng trưởng” đối với các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế, để phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của vùng, địa phương; là biện pháp khắc phục cơ cấu kinh tế “khép kín” của địa phương và khai thác tối đa nguồn lực của xã hội.
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu của Ban Kinh tế Trung ương, các đại biểu tập trung thảo luận, phân tích, đánh giá làm rõ hơn một số nhóm vấn đề và các đề xuất, kiến nghị về các giải pháp phát triển kinh tế vùng và liên kết vùng.
Các đại biểu đề nghị cần xác lập rõ ràng, cụ thể hơn chiến lược phát triển kinh tế vùng trong chiến lược phát triển quốc gia từ quy hoạch, chương trình phát triển, đầu tư, quản trị, dịch vụ công, phát triển công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ.
Nhiều nhà khoa học, chuyên gia đều đề xuất rà soát phân vùng hợp lý, khoa học và thực tiễn, phù hợp với giai đoạn mới phát triển đất nước các vùng kinh tế - xã hội và vùng kinh tế trọng điểm. Loại bỏ sự chồng lấn trong phân vùng, ban hành rõ thẩm quyền, quyền hạn trong phân vùng và quản trị vùng, hoàn thiện quy hoạch phát triển vùng trên cơ sở lợi thế so sánh của từng địa phương, khắc phục không gian kinh tế bị chia cắt bởi địa giới hành chính. Trên cơ sở các quy hoạch và kế hoạch được phê duyệt, cần tập trung các nguồn lực của Nhà nước và các thành phần kinh tế để đầu tư, phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội, đặc biệt là kết cấu hạ tầng giao thông, đô thị và nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới; đồng thời cần tạo lập thể chế, cơ chế, chính sách để thu hút mạnh mẽ các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia hình thành và phát triển kinh tế vùng.
Các đại biểu thảo luận về mô hình thể chế điều phối, quản trị vùng, cơ chế chính sách phát triển vùng ở Việt Nam, cân nhắc để tạo lập cơ chế chính sách thích hợp, thúc đẩy liên kết, tăng cường đầu tư theo vùng, phù hợp với chức năng kinh tế, xã hội, bảo tồn sinh thái, để tạo điều kiện phát triển nhanh hơn các khu vực còn nhiều khó khăn, đặc biệt là vùng biên giới, hải đảo, Tây Nam, Tây Nguyên, Tây Bắc và phía Tây các tỉnh miền Trung, vùng bãi ngang.
Được biết, kết quả của Hội thảo sẽ được tổng hợp để báo cáo Thường trực Ban Bí thư, Chính phủ và các bộ, ngành, cơ quan liên quan để nghiên cứu, triển khai trong thực tiễn.
Hương Thủy