Chiếc cầu tre "dài nhất Việt Nam": Sẽ chỉ còn trong ký ức?
(Cadn.com.vn) - Một buổi sáng đầu tháng 9, trong quán cà-phê nhà báo Vũ Công Điền kể cho tôi nghe về chiếc cầu tre dân sinh, được coi là dài nhất Việt Nam, đã gắn bó gần nửa thế kỷ với nhân dân hai bờ sông Trường Giang (Quảng Nam), sắp... “qua đời”. Bởi cách đó không xa, một cây cầu bê-tông cốt thép, kiên cố và hiện đại sắp sửa hoàn thành đưa vào sử dụng. Chiếc cầu tre được coi như đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử “nối những bờ vui” của mình để đi vào quên lãng...
Tôi vội vã phóng xe vào Hội An, lênh đênh trên chiếc tàu cập bến Cẩm Kim, rồi len lỏi đi qua những con đường làng thơm ngát mùi cói đang mùa hoang hoải, mùi lúa non sắp trổ đòng để tìm đến cây cầu tre có lẽ sau này chỉ còn trong ký ức. Thật may, khi tôi tới nơi, chiếc cầu vẫn còn, cách đó không xa, công nhân đang tất bật hoàn thiện những công đoạn cuối cùng của cây cầu bê-tông hiện đại.
Trên chiếc cầu tre vẫn có rất nhiều người qua lại như nhịp sống đôi bờ sông Trường Giang vốn như vậy từ bao đời nay. Cây cầu tre dài gần 300m, rộng 1,8m bắc qua sông Trường Giang nối liền 2 xã Duy Thành và Duy Nghĩa thuộc vùng đông H. Duy Xuyên, Quảng Nam. Chiếc cầu được làm từ 25.000 cây tre, 100kg đinh và 5m3 ván gỗ và 10.000 chiếc lốp xe đạp cũ để chằng giữ các thân tre lại với nhau.
Bà Tám (74 tuổi) nhà ở ngay cầu cầu tre thuộc xã Duy Thành - người đã gắn bó với cây cầu với bao kỷ niệm buồn vui, kể: Cách đây chừng 50 năm, do để thuận tiện trong việc thông thương giữa 2 xã Duy Nghĩa và Duy Thành nên nhân dân hai bờ đã tổ chức quyên góp để làm một cây cầu tre. Ai có của thì góp của, ai có công thì góp công. Vậy là người thì tre nứa, gỗ ván, người thì góp lốp xe đạp bỏ đi (thời ấy lốp xe đạp cũ là hàng hiếm), mỗi người góp một ít nên khi bắt tay vào làm cầu thì vật liệu cơ bản đã gom đủ.
![]() |
Chiếc cầu tre được coi là dài nhất Việt Nam. |
Ngày ấy cuộc sống nhiều khó khăn nên cây cầu đầu tiên hoàn thành không được đẹp đẽ, to lớn và chắc chắn như bây giờ. Sau vài tháng đưa vào sử dụng, thì bà con liên tục phải gia cố để cây cầu được chắc chắn. Cứ như vậy, chiếc cầu chung sức, chung lòng của bà con ở đôi bờ đã tồn tại mấy năm. Nhưng lâu dần vật liệu để gia cố không còn nữa, chiếc cầu cũng ọp ẹp dần nên bà con lại chủ yếu qua lại bằng thuyền.
Sau ngày đất nước giải phóng hoàn toàn, một lần nữa người dân nơi đây, được sự giúp đỡ của chính quyền lại chung tay, góp sức làm một cây cầu chung, song sức người có hạn, sức sống của những cây cầu tre lại vốn không bền, nên một lần nữa việc qua lại trên cầu phải tạm ngưng. Tuy nhiên, một thời gian sau, cây cầu tre khác khang trang hơn, đẹp đẽ hơn, bền và tốt hơn lại được bắc qua sông.
Lần này chính quyền 2 xã đã tính đến vấn đề thiết thực hơn là cho đấu thầu làm cầu, ai trúng thì tổ chức làm cầu, đảm bảo được độ an toàn cho bà con khi qua sông, và được phép thu phí qua cầu: xe máy mỗi lượt qua 3 ngàn đồng, người gồng gánh đi bộ 1 ngàn đồng, nhiều khi chả có đồng nào, ngoài một nụ cười tủm tỉm... dẫu vậy, vẫn là rẻ chán, lại tiện và nhanh hơn đi đò nhiều. Từ bấy đến nay, chiếc cầu tồn tại theo hình thức như vậy và nó trở thành sợi dây huyết mạch liên kết giữa 2 xã vùng tây Duy Xuyên.
![]() |
Xe máy qua cầu tre. Ảnh: H.H |
Bà Tám còn nhớ như in, ngày đám cưới rước dâu qua cầu của vợ chồng bà. Hôm đó trời mưa bay bay, cầu trơn khó đi, nhưng cả đoàn nhà trai nhà gái vẫn ôm hoa đi qua cầu đẹp lắm. Hai bên bờ sông, dưới sông bà con cũng neo thuyền đứng xem, rồi pháo nổ đầy trời khi cô dâu về đến cầu bên ni, xác pháo hồng rực cả một đoạn cầu trông rất thơ mộng... Những đêm trăng huyền hoặc, cây cầu tre trở thành nơi hẹn hò, tình tự của những đôi trai gái sinh sống hai bên bờ Trường Giang... Bà cười móm mém, con trai, con gái bà cũng yêu nhau và nên vợ nên chồng bên cây cầu ấy...
Tôi đứng bên cây cầu hơn 1 tiếng đồng hồ, mà không biết bao nhiêu lượt người qua lại, dưới chân cầu thỉnh thoảng lại có vài chiếc thuyền con neo lại, giăng lưới bủa cá tạo nên một bức tranh quê đẹp tuyệt vời... Tôi “đánh liều” phóng xe qua chiếc cầu tre gập ghềnh - vốn đã rất quen thuộc với người vùng quê, nhưng lại là một thử thách đối với một người như tôi. Chiếc xe long sòng sọc trên những ván cầu khấp khểnh, phải giữ chắc tay và lái thật nhanh, nếu không muốn mắc nạn trên cầu. Hú hồn, tôi đã đến đầu cầu bên kia thuộc xã Duy Nghĩa. Đón tôi bằng một nụ cười thông cảm, chị Hồng - người làm nhiệm vụ thu tiền của khách qua cầu, từ chối không lấy tiền của tôi. Chị bảo “lần đầu cô đi thấy sợ, nhưng đi hoài rồi quen”.
Quả thật, ngay sau tôi là những chị phụ nữ đi xe máy vừa chở người, vừa chở gà, chở thêm buồng chuối to rất đỗi cồng kềnh nhưng vẫn bình thản chạy qua cầu, vừa đi vừa nói chuyện tỉnh bơ. Nhiều người đến đầu cầu bên này rất quý cô gái thu tiền, có người còn dừng lại uống nước chè xanh, trò chuyện một lát rồi mới đi tiếp, tình làng quê mộc mạc gắn kết là vậy... Về trường hợp những người qua sông chỉ... “cười tủm tỉm”, chị Hồng bảo họ đều là người làng trên xóm dưới quen nhau hết cả, khi nào tiện thì họ đưa, nếu không có tiền trả, hoặc quên thì thôi. Vả lại, mỗi ngày có hàng ngàn lượt khách qua sông, số tiền thu được coi như cũng tạm ổn.
Tạm biệt chị Hồng, tạm biệt những kỷ niệm đẹp đẽ của bà Tám và bao người dân quê đã gắn bó với cây cầu tre "dài nhất Việt Nam" suốt bao nhiêu năm qua. Và tôi chợt nhận ra, không chỉ họ, mà tôi cũng vô cùng luyến tiếc nếu một mai cây cầu không còn nữa...
Song Ngân