Chiến sĩ biệt động và những trận đánh "xuất quỷ nhập thần"
Khoảng cuối năm 1998, được tin anh Võ Văn Cả - lúc bấy giờ là Phó Giám đốc Cty Vật tư thứ liệu Đà Nẵng vinh dự được Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng LLVTND Việt Nam, tôi háo hức tìm gặp anh ngay. Anh vui vẻ tiếp chuyện nhưng khi nghe tôi muốn viết về anh, anh liền khéo léo chối từ: “Dạo rày kinh doanh bận rộn lắm, hẹn khi khác nhé!”. Vài năm sau, tôi lại nhận được tin, anh đang làm Giám đốc..., đơn vị đang làm ăn ngon ơ thì anh lại nằng nặc đòi xuống làm Phó Giám đốc. Anh thêm một lần làm cho tôi thực sự ngỡ ngàng. Năm 2008, Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng dự định ra tập sách viết về Biệt động Đà Nẵng, Anh hùng Võ Văn Cả là một trong những cái tên đầu tiên được nhắc đến. Tôi nhận lời viết về anh nhưng vẫn còn ôm mối lo. Theo sự gợi ý của người bạn công tác tại Ban Tuyên giáo Thành ủy, chúng tôi tháp tùng ông Nguyễn Ngọc Phỉ - thủ trưởng cũ của anh Cả thời “Biệt động thành Đà Nẵng” cùng đi và lần này thì tôi được việc vì anh Cả “tuân lệnh thủ trưởng”... N.Đ.N
Xóa trạm cảnh sát ngã ba huế, diệt đại úy an ninh quân đoàn 1
(Cadn.com.vn) - Năm 1965, khi Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng, tôi vừa tròn 11 tuổi. Như nhiều làng quê miền
Ở Đà Nẵng lúc bấy giờ, quân Mỹ, quân chư hầu, ngụy quân và đặc biệt là mạng lưới tình báo, mật vụ dày đặc nên việc đánh Mỹ, diệt ngụy không dễ. Hồi đó tuy đã 15 tuổi nhưng vóc dáng nhỏ bé, lại có giấy tờ tùy thân hợp pháp nên tôi có lợi thế để hoạt động tại nội thành. Tôi được bố trí về Khu phố Ngũ xã thuộc Quận Nhất và được giao đánh trận đầu tiên: Xóa trạm quân cảnh tại NGÃ ba Huế.
Qua theo dõi, tôi biết tại trạm cảnh sát này có một tiểu đội gồm cảnh sát, quân cảnh, quân trấn. Sau khi tự vận chuyển vũ khí cất giấu, 20 giờ ngày 19-2-1970, tôi mang 1 quả lựu đạn M26 và khối thuốc nổ tiếp cận mục tiêu. Tôi bí mật đào hố sát rào trạm gác, dùng bao phân người giằng lên viên pin PRC 25 trực tiếp đè lên cần lựu đạn. Đặt mìn ngụy trang xong là 21 giờ. Sáng hôm sau trời im gió, đến chiều gió thổi mạnh, mùi hôi thối nồng nặc làm bọn lính nổi khùng sục sạo tìm kiếm. Chúng lôi bao phân quẳng đi và ngay lập tức, quả lựu đạn và “mìn tự tạo” phát nổ, phanh thây 5 tên, 2 tên bị thương nặng và nhiều tên khác bị thương nhẹ.
Thắng trận đầu, tôi càng hăng say đánh giặc. Tôi về lại căn cứ bàn đạp ở Điện Hòa (Điện Bàn) báo cáo kết quả và tiếp tục nhận 3 quả lựu đạn tự chuyển ra Đà Nẵng cất giấu tại hầm rác gần nhà cơ sở cách mạng là chị Lê Mai ở khu phố Thạc Gián. Tôi mua sẵn 3 ổ bánh mỳ lớn để khi có thời cơ là ngụy trang ngay để hành động. Đêm 8-5-1970, tôi cầm “ổ bánh mỳ” vừa đi vừa gặm trên đường Trưng Nữ Vương, tới cống Mê Linh thì thấy chiếc xe Mỹ chạy đến, tôi liền ném quả lựu đạn M26 vào xe rồi nhanh chóng chuyển vị trí nhưng lựu đạn không nổ. Bọn Mỹ hoảng loạn bỏ xe la hét tháo chạy, tôi tiếp tục đi tìm mục tiêu khác. Về đến đường Lý Thái Tổ, tôi thấy một xe chở lính Mỹ từ sân bay ra va chạm với một người đi xe máy, bọn Mỹ và quân cảnh xúm lại giải quyết hậu quả. Nhanh như cắt, tôi tung lựu đạn vào bọn Mỹ, ngụy. Chúng la hét, chạy tán loạn. Sáng hôm sau, báo Tia Sáng đưa tin “Việt Cộng nổ lựu đạn làm chết và bị thương 12 lính Mỹ, phá hủy 1 xe Jeep”.
Trận đánh diệt ác ôn khét tiếng – tên đại úy an ninh Quân đoàn 1 tại khu phố Thanh Bình cũng là một trận đáng nhớ. Tôi nhận nhiệm vụ này với lời căn dặn của cấp trên là bằng mọi giá phải giết cho được hắn nhằm phá thế kìm kẹp của địch đồng thời gây “tiếng vang” làm bọn địch hoảng sợ chùn bước. Tôi liên tục theo dõi và nắm bắt quy luật: tên này khoảng 18 giờ 30 đến 19 giờ 30 chiều thứ bảy hằng tuần, thường đánh xe đến quán bò tái trên đường Ông Ích Khiêm, bóp còi ra hiệu cô bồ nhảy lên xe đi chơi. Chiều 2-7-1970, tôi đến trước quán bò tái đứng “gặm bánh mỳ”. Đúng giờ, xe của tên đại úy chở tên lính đến đỗ xe sát nơi tôi đứng. Tôi liền tung lựu đạn, tiếng nổ đanh vang lên làm tên đại úy chết tại chỗ, tên lính bị thương nặng, xe hỏng hoàn toàn. Vì đánh quá gần nên tôi bị thương ở tay. Đúng lúc này, thành phố báo động, quân cảnh được điều đến đông như kiến áp sát hiện trường. Thấy khó có bề thoát, tôi bèn ôm chặt cánh tay chảy máu ròng ròng kêu la: “Tui đi qua đây, thấy xe bị nổ điếc tai làm tui gãy tay rồi... ơi trời đất ơi”. Bà con thấy cậu bé bị thương bèn chạy đến băng bó và một chiếc xe cứu thương đã bốc tôi và tên lính bị thương cùng với xác tên đại úy về Bệnh viện Duy Tân (nay là Bệnh viện C17). Trong thời gian điều trị, bọn địch nghi ngờ dò hỏi, tôi giả vờ ngơ ngác cho biết: “Tui từ quê lên tìm mẹ, pháo Mỹ bắn bị thương ở Bệnh viện ĐA khoa. Tui mới tới đó không biết cái chi trong xe nổ cái rầm làm tui gãy tay. Liệu tui có bị cưa tay không mấy ông?” rồi đưa cả giấy khai sinh cho chúng xem. Nằm viện 5 ngày, tôi xin ra viện về căn cứ.
Sau các trận đánh, tôi được kết nạp vào Đoàn Thanh niên nhân dân Cách mạng Việt
Đầu năm 1972, tôi vinh dự được kết nạp vào Đảng.
![]() |
Xe tăng Quân giải phóng tiến vào Đà Nẵng năm 1975. Ảnh: T.L |
1 đêm đánh 6 trận làm rúng động cả thành phố
Thời điểm này đang diễn ra đàm phán 4 bên để chuẩn bị cho việc ký kết Hiệp định
Để dễ hoạt động, tôi được chuyển về ở nhà ông Trần Văn Chính ở đường Huỳnh Thúc Kháng. Ông Chính là cán bộ kháng chiến chống Pháp, ở tù Côn Đảo, năm 1963 trở lại Đà Nẵng sắm xe tải kinh doanh che mắt địch để hoạt động cách mạng. Bề ngoài, tôi là người làm thuê cho ông. Tôi nhận 6 quả lựu đạn đem về đây giấu chờ thời cơ hành động. Sẩm tối 17-9-1972, tiết trời Đà Nẵng êm dịu, mưa lâm râm. Tôi nói nhỏ với ông Chính: “Trời ủng hộ chiến sĩ biệt động rồi đó, chú ạ”. Trời tối hẳn, tôi nai nịt bộ quần áo, cài 6 quả lựu đạn gọn gàng, khoác chiếc áo măng-tô, nhảy lên nhảy xuống vài lần để kiểm tra mấy quả lựu đạn có bị rơi không rồi vững bước lên đường...
20 giờ, tôi từ đường Huỳnh Thúc Kháng sang đường Trưng Nữ Vương, thấy 5 tên cảnh sát đang tập trung tại một bót gác, tôi ném ngay một quả lựu đạn, cả 5 tên giãy đành đạch. Trận mở màn đêm “N” của tôi thắng lợi. Tôi ngoặt sang đường Phan Châu Trinh, thấy một tiệm cà-phê đầy sắc lính, tôi tiếp cận mục tiêu rồi tung ngay quả lựu đạn vào giữa tiệm cà-phê làm chết 4 tên địch, bị thương 5 tên. Tôi thoắt biến sang ngả đường khác và tiếp tục công việc. Đến 22 giờ 45, tôi định hướng và đi về ngã năm Phan Châu Trinh. Tại đây tôi quan sát thấy có toán lính dù khoảng 20 tên từ đâu mới về râu tóc bờm xờm đang cãi cọ, tôi liền tính hướng thoát và rút chốt quả lựu đạn M26 ném vào. Trận này, về sau tôi được biết có 6 tên địch chết, 4 tên bị thương... Sau đó, tôi lẻn về hướng ngã tư Hùng Vương – Phan Châu Trinh..
![]() |
Anh hùng Võ Văn Cả (bên trái) cùng thủ trưởng cũ Nguyễn Ngọc Phỉ. |
Trời càng về khuya, thấy một toán cảnh sát đứng trong một lô cốt lộ thiên, tôi ném tiếp một quả M26 vào lô cốt nhưng không nổ. Cả bọn bỏ chạy thục mạng, la ó, không tên nào dám ngoảnh lại. Chợt tiếng còi báo động vang lên, tốp cảnh sát đổ xô ra đường, dùng síp-lê thổi inh ỏi. Tôi lách người băng về hướng đường Ông Ích Khiêm thì bất ngờ, chiếc GMC chở đầy cảnh sát dã chiến đổ quân trước mặt... Tôi tiếp tục di chuyển về đến trước cổng chùa Tỉnh Hội và dùng quả lựu đạn M26 còn lại đánh ngay vào chiếc GMC. Quả lựu đạn nổ tung, tôi tìm cách rút lui, tay cầm quả lựu đạn mini còn lại với ý định nếu có chuyện gì sẽ “chiến đấu tới cùng”. Đúng lúc đó có một người đi đường nhìn thấy tôi la lên: “Việt cộng! Việt cộng”. Biết đã bị lộ, tôi quay lưng chạy thì một tên CA chìm bỏ xe máy, cầm súng đuổi theo vừa bắn chỉ thiên và hét: “DừNG lại, dừng lại”. Tôi liền vụt quả lựu đạn mini về phía sau làm hắn chết tại chỗ. Tôi tưởng mình đã thoát thì đột nhiên có một chiếc xe tuần tiễu của Ty Cảnh sát Gia Long chạy đến ép tôi vào sát tường chùa Tỉnh Hội, vài tên nhảy xuống chĩa súng vào tôi. Một tên chụp ngay tay tôi ngửi và đẩy tôi lên xe về Ty Gia Long, sau đó đưa qua Nha Thẩm vấn Thanh Bình. Lúc này đã 3 giờ sáng 18-9-1972.
Địch đưa tôi về giam tại nhà lao 3 tháng. Tôi không nhớ đã bao lần bọn địch giở đủ mọi thủ đoạn tra tấn dã man, tôi chỉ có một lời khai duy nhất: “Tui ở Sài Gòn về Duy Xuyên tìm mẹ, khi đến Đà Nẵng thì gặp chuyện không may bị các ông nghi oan bắt nhốt”. Sau 3 tháng giam cầm, chúng buộc phải thả, tôi lại trở về với hàng ngũ biệt động.
Hiệp định Paris được ký kết, tôi cảm thấy tự hào vì đã góp thành tích nhỏ của mình trong hoạt động của biệt động thành Đà Nẵng trong cuộc tấn công chiến lược năm 1972 cũng như của cả quá trình chiến đấu trong lòng thành phố. Với 17 trận đánh, tôi đã tiêu diệt 96 tên địch, trong đó có 19 tên Mỹ, phá hủy 5 xe, 16 lần đạt danh hiệu DŨNG sĩ diệt Mỹ, diệt ngụy; tôi cũng là một biệt động đánh 5 trận trong một tháng, đặc biệt trong đợt tấn công chiến lược 1972, có một đêm tôi đánh liền 6 trận. Với những thành tích này, tôi được tặng thưởng 2 Huân chương Chiến công Giải phóng hạng Nhì và Ba; 3 Huân chương Chiến sĩ GIảI phóng hạng Nhất, Nhì, Ba.
Sau giải phóng, tôi được điều về làm Phường đội trưởng P. Nam Dương (Đà Nẵng) và đến năm 1976, được Thành đội cho chuyển ngành sang hoạt động kinh tế cho đến bây giờ. Từ đó đến nay, ở cương vị công tác nào tôi cũng luôn có ý thức phát huy phẩm chất, truyền thống tốt đẹp của “Anh Bộ đội Cụ Hồ”, cố gắng phấn đấu hết sức mình để đạt được mục tiêu “giỏi kháng chiến - giỏi kiến quốc”! Với những thành tích trên, năm 1998, tôi vinh dự được Nhà nước tặng thưởng danh hiệu cao quý: Anh hùng LLVTND Việt
Hồi ký của Anh hùng LLVTND Việt
Nguyễn Đức