Chuyện 5 anh em xứ Quảng

Thứ sáu, 24/02/2017 12:13

(Cadn.com.vn) - 5 anh em tham gia cách mạng và đều để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng nhân dân địa phương. Đó là gia đình của Đại tá Nguyễn Văn Điệu ở xã Đại Hưng, Đại Lộc (Quảng Nam).

CHA CON VÀ HAI NHÀ TÙ

Ở tuổi 70, Đại tá Nguyễn Văn Điệu - nguyên Hiệu trưởng Trường Quân sự Quân khu 5 trông vẫn còn rất “trai tráng”. Khi được khen như vậy, ông cười và nói rằng, ngày xưa nhờ nhanh nhẹn, mưu trí mà cứu được cha mình thoát nạn. Câu chuyện bỗng chốc quay về miền ký ức: “Ngày địch càn qua thôn Trúc Hà, tôi và cha đang ở ngoài rẫy. Lo cho người ở lại khi nhà cháy rừng rực, hai cha con cùng chạy về. Chúng phục sẵn, bắt cả hai lên nhà lao Cấm Thị đánh đập dã man. Đêm 25- 4 -1965, ta bắn cối 82 uy hiếp chi khu Thượng Đức. Để xóa dấu tích nhà lao, bọn ngụy đặt mìn clây- mo vào khu nhà giam. 4 người chết, nhiều người bị thương nặng, trong đó có tôi và cha. Ông bị gãy xương vai không thể đi được. Tôi dìu ông chạy trốn và không ngờ rằng, trong đời mình có đến 2 lần dìu cha trốn khỏi 2 nhà tù”. Hai cha con chỉ đến được bờ sông thì người cha đuối sức, không đi được nữa, đòi để lại, giục con trốn thoát. Nhưng người con trai thì không thể, đành dìu cha vô lại nhà lao để mong được cứu chữa vết thương quá nặng. Đúng như dự đoán, bọn địch băng bó sơ cứu rồi đưa lên máy bay trực thăng ra bệnh viện Duy Tân Đà Nẵng. Ra đây chưa ấm chỗ, chúng điều tra giấy tờ biết là gia đình Việt cộng, lập tức đẩy vào nhà lao Hội An. Hai tháng ở đây, một buổi tối lợi dụng canh tù xem phim “nóng” say sưa, cậu con trai dùng ống đu đủ thông báo cho người cha bị điếc nằm cách vách ngăn về kế hoạch vượt ngục, rồi để cha nắm chân mình, trườn ra bờ rào địch sơ hở nhất và trốn thoát. Đường về đến nhà còn lắm gian nan và đủ cung bậc hồi hộp qua mắt địch, nhưng cuối cùng cả hai về quê an toàn.

Ông Điệu thắp hương bàn thờ cha mẹ.

Vài tháng sau, Nguyễn Văn Điệu được chọn vào lực lượng trinh sát Quảng Đà. Phát huy sở trường “nhanh như sóc”, trong các trận đánh chi khu Thượng Đức và Hòn Chồng 1967, ông lập cú đúp khi mới 18 tháng trong quân ngũ đã được tặng thưởng hai huân chương Chiến công Giải phóng hạng hai và hạng ba. Được chọn đi học trường Sĩ quan Lục quân 1 ở miền Bắc, chưa bao lâu, ông xin vào Nam chiến đấu, làm tiểu đoàn trưởng đặc công đánh Quảng Trị khi mới 24 tuổi. Rồi ông được cử làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 20 thuộc Bộ Tư lệnh Công an vũ trang qua làm nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia. Một quãng bi kịch đời ông cũng từ đây. Trùng lặp ngẫu nhiên, ông ở đơn vị, địch không tập kích, nhưng ông đi, lại có chuyện. Mấy lần như vậy, cộng thêm kẻ ác miệng, tổ chức dừng công tác ông, đưa về Đà Nẵng điều tra. Những ngày đó, không những ông mà cả gia đình sống trong tâm trạng bí bức. Cái “máu nóng” người Quảng khiến ông làm liều, quyết sống chết bảo vệ truyền thống gia đình. Nhờ vậy, ông được gỡ oan, được qua lại chiến trường làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 143, sau đó Sư đoàn phó Sư đoàn 315, về lại Thành đội Đà Nẵng, rồi hiệu trưởng Trường Quân sự Quân khu 5 đến 11 năm.

TẤM DÙ HOA LY BIỆT

Nói đến Anh hùng LLVTND Nguyễn Năm (Xuân) nguyên Chính trị viên phó Đại đội 1, người dân các xã Lộc Bình, Lộc Vĩnh ngày ấy ai cũng biết. Ông là một trong những tay súng cừ khôi, góp phần làm nên chiến thắng trận Hà Vi nổi tiếng năm 1966. Vốn thông minh, học hỏi rất nhanh và dũng cảm, ông có thể cùng lúc sử dụng nhiều vũ khí như đại liên, cối 60 làm địch vô cùng khiếp sợ. Bị thương hư một mắt, cấp trên cho ra Bắc chữa bệnh và học tập nhưng ông kiên quyết ở lại chiến đấu. CCB Nguyễn Trung Chính, nguyên Huyện đội trưởng H. Đại Lộc kể về người em kế của mình trong nỗi xúc động: “Tôi gắn bó với Năm nhất vì cậu em Bảy Điệu quân chủ lực đi xa, cậu út Tập cũng làm xã đội phó ở nhà. Tôi và Năm đều ở trên huyện. Năm đánh giặc lì lắm. Còn nhớ đánh trận Hà Vi, cậu ta về khoe với tôi “đánh Mỹ dễ hơn đánh ngụy anh à” rồi cười tít mắt. Vậy mà chỉ hai năm sau tôi phải đi tìm em”.

Ông Nguyễn Trung Chính (giữa) đón nhận danh hiệu Anh hùng LLVTND
cho Đại đội 1, Đại Lộc (4-2016).

Năm 1968, Đại đội 1 (đơn vị AHLLVTND) cùng các lực lượng của Quân khu và tỉnh cùng tấn công căn cứ địch ở Thượng Đức. Ông Chính được Huyện ủy phân công đứng cánh. Trận đánh ác liệt ngay từ đầu bởi địch phản công mạnh. Chúng rải bom như mưa. Chính trị viên phó Nguyễn Năm và người liên lạc bị hất tung vào bụi tre. Tối hôm đó, dứt tiếng súng, người anh đi tìm em khắp cả chiến trường. Bàng hoàng khi nhìn công sự nơi em trú là vết bom sâu hoắm. Sáng hôm sau bà con Lộc Bình nói rằng đã tìm thấy Nguyễn Năm và chôn cất chu đáo. Sau giải phóng, khi cất bốc đưa vào nghĩa trang, cả nhà bật khóc khi thấy còn nguyên khẩu súng K54, thắt lưng và chiếc dù hoa bên hài cốt người anh hùng...”. Nhắc đến tấm dù hoa, Đại tá Nguyễn Văn Điệu lặng đi: “Tôi nhớ lắm khi cùng anh về nhà thăm cha mẹ, rồi trở lại cứ trước khi ra Bắc học. Hai anh em ăn tô mì Quảng bà Kỷ, tại đây anh xé tấm dù hoa ra làm đôi, nhờ cô thợ may gần đó may lại để khỏi tưa. Anh quàng lên vai tôi: “Em giữ một nửa, anh một nửa làm kỷ niệm ngày chia tay”. Tấm dù ấy đã theo tôi suốt những năm ở miền Bắc, chiến đấu Quảng Trị, rồi Campuchia đến khi về nước”.

Có 5 người con thì 2 con trai cùng chồng hy sinh, bà Lê Thị Kiến được phong tặng Bà mẹ VNAH. Cô con gái Nguyễn Thị Bé làm giao liên và bị giam tù Côn Đảo, sau năm 1973 mới được trao trả. Gia đình Đại tá Nguyễn Văn Điệu trở thành một trong những gia đình cách mạng tiêu biểu của xã Đại Hưng. Nối gót cha, ba người con trai của ông ở Đà Nẵng đều đi bộ đội. Cậu cả Nguyễn Văn Ngọc hiện là trung tá, Phó tham mưu trưởng Sư đoàn 2. Mạch nguồn truyền thống từ sông Vu Gia như chảy mãi trong huyết quản những người con Đại Lộc kiên cường.

Hồng Vân