Dấu ấn Công chúa Huyền Trân trên đất Đà thành

Thứ sáu, 02/04/2010 00:00

(Cadn.com.vn) - Chuyện xưa kể rằng: Khi vua Chăm băng hà, theo luật tục người Chăm, Hoàng hậu Huyền Trân phải lên giàn hỏa thiêu. Vì thương em, vua Trần đã phái Trần Khắc Chung đưa đoàn chiến thuyền vào Quy Nhơn để giải cứu. Hành trình quay về cố quốc của Huyền Trân ghé nhiều nơi và để lại nhiều dấu ấn trên khắp vùng duyên hải miền Trung. Có lẽ vậy mà một số nơi người ta thấy có miếu thờ bà, do người dân tôn kính lập nên. Tại Đà Nẵng, hiện có đến 2 ngôi miếu thờ Huyền Trân gắn với những câu chuyện khá thú vị, mà không phải ai cũng biết đến.

Tôi nghe nói đến miếu thờ công chúa Huyền Trân tại danh thắng Ngũ Hành Sơn từ lâu, cứ ngỡ sẽ dễ dàng tìm ra ngôi miếu ấy nhưng  tôi đã lầm... Suốt một buổi chiều chạy tới chạy lui hỏi thăm nhiều người  tôi mới biết được vị trí chính xác của ngôi miếu và lai lịch của nó. Người cuối cùng tôi gặp là ông Trần Văn Thủy (trú Sơn Thủy- Hòa Hải), ông vui vẻ kể cho tôi nghe vài điều về miếu thờ Huyền Trân.

Dẫn tôi đến ngôi miếu, ông Thủy kể: “Có nhiều truyền thuyết khác nhau về ngôi miếu này, có người nói là miếu thờ Công chúa Ngọc Hân, người lại bảo thờ Huyền Trân... Mãi sau này, theo nhiều nhà nghiên cứu lịch sử thì đây chính là miếu thờ Huyền Trân Công chúa. Ngày xưa, cứ vào xuân thu nhị kỳ các cụ bô lão của làng tổ chức cúng tại miếu này rất lớn, vì các cụ cho rằng miếu rất linh thiêng. Sau này miếu đã bị hư hỏng nặng, đến năm 2007, tôi đứng ra huy động nhân dân cùng góp tiền để tu sửa. Hằng năm, cứ vào ngày 25-11 (âm lịch), chúng tôi tổ chức cúng tế”.

Nằm tựa lưng vào núi Kim Sơn, trong quần thể di tích Ngũ Hành Sơn, miếu thờ Huyền Trân nghe đâu được lập vào thời điểm bà quy tịch tại chùa Cả (làng Dành, tỉnh Thái Bình). Miếu được xây dựng bằng gạch Chăm, có văn bia. Đến năm 1980, do phong trào bài trừ mê tín rầm rộ, một số người đã đập nhầm di tích này. Vào năm 2007, khi xây dựng lại di tích trên, người dân ở thôn Sơn Thủy phát hiện hai câu đối của miếu xưa chỉ còn lại 4 chữ Nho là “Thiên thu – Vạn cổ”. Hiện nay miếu thờ Huyền Trân được xây dựng đàng hoàng tại chính nền miếu xưa, những viên gạch Chăm vẫn còn đó nhưng câu chuyện về ngôi miếu này thì không được nhiều người biết đến.

Từ Ngũ Hành Sơn, tôi ngược lên Hải Vân để xem một ngôi miếu thờ Huyền Trân khác tại làng Xuân Dương (Hòa Hiệp Nam). Ở  đây nhiều bậc bô lão vẫn kể cho con cháu nghe về lịch sử hình thành của ngôi miếu. Miếu này xuất phát từ một truyền thuyết khá thực: Năm 1307, khi đoàn chiến thuyền của Trần Khắc Chung từ Bình Định ra, vào cửa Đại Chiêm rồi theo đường sông Cổ Cò ra Đà Nẵng. Từ đó, họ men theo biển đến Nam Ô và trú tại đây để tìm cách vượt ải Vân QUAN ra thành Hóa Châu. Lúc đó Hòn Hành đang là cứ điểm canh phòng của quân Chăm nên họ phải nán lại Nam Ô.

Ông Chín bên miếu Huyền Trân ở Ngũ Hành Sơn, được tu sửa lại khang trang. 

Tại đây, Công chúa Huyền Trân được dân làng che chở một thời gian. Khi  quân của vua Chăm đuổi kịp, bao vây bốn mặt. Bí thế, một viên tùy tướng của Trần Khắc Chung quyết tử đánh chặn hậu, để Trần Khắc Chung dùng thuyền nhẹ đưa Công chúa ra khơi, thẳng hướng Hòn Hành thoát khỏi sự truy đuổi. Viên tướng đánh chặn hậu năm đó không biết họ tên gì, song ông đã lâm trận và chết tại đây. Tri ân công đức “đền nợ Ô, Lý” của Công chúa Huyền Trân, dân làng Nam Ô lập miếu thờ bà, riêng vị tướng nọ sau khi chết được chôn cất tử tế và phong ông làm tiền hiền của làng.

Dẫn tôi đi thăm ngôi miếu thờ Huyền Trân và mộ tiền hiền, ông Huỳnh Diễn – một người dân sống ở đây, kể: “Người dân chúng tôi chỉ biết đây là miếu thờ Bà, chứ không biết bà nào! Xưa kia, dân làng cứ “xuân thu nhị kỳ” cúng tế miếu và tiền hiền!”. Nhìn thấy miếu, tôi không khỏi xót xa: cây dại mọc um tùm, mái ngói xiêu vẹo. Khi tôi cho biết, tại thôn Sơn Thủy (Q. Ngũ Hành Sơn) cũng có một miếu thờ Huyền Trân, đã được người dân xây dựng lại và các miếu thờ này đều có trong danh sách khảo sát của Viện Viễn Đông bác cổ hồi đầu thế kỷ XX thì ông Diễn buồn thiu.

Ông nói: “Nhìn thấy ngôi miếu như thế này dân làng chúng tôi cũng xót xa lắm, nếu có tiền để phục dựng ngôi miếu thì hay biết mấy, tiếc rằng dân làng còn khó khăn quá. Còn mộ tiền hiền đang nằm trong khu quy hoạch, dân làng tôi đang xin thành phố để nguyên hiện trạng”.

Sau khi đi thăm hai ngôi miếu thờ Công chúa Huyền Trân, trong tôi dậy lên một nỗi niềm khó tả. Thiết nghĩ, không phải nơi nào cũng có đến hai miếu thờ Huyền Trân Công chúa như ở Đà Nẵng. Nên chăng, chúng ta cần có một hành động thiết thực nhằm tri ân nàng  công chúa đã không quản ngại “nước non ngàn dặm ra đi” để mở mang bờ cõi cho đất nước, đồng thời đó cũng chính là lòng thành để hướng đến dịp kỷ niệm “Ngàn năm Thăng Long - Hà Nội” trong năm này.

Ghi chép: Lưu Hoàng Anh