Đọc Người lính của Hoàng Văn Cung

Thứ hai, 16/05/2016 08:29

(Cadn.com.vn) - Hơn 20 năm trước, tôi và anh Hoàng Văn Cung là chỗ hàng xóm láng giềng với nhau. Anh hiền lành, trầm tĩnh, ít nói và tốt bụng. Gia đình tôi thấy vui vì có được những người hàng xóm thân mến như gia đình anh. Những năm ở sát vách nhà nhau, tôi chưa lần nào nghe anh nói về văn chương thi phú cả. Buổi sáng, anh đạp xe đi làm ở Công ty Xây lắp và sửa chữa điện Quảng Nam–Đà Nẵng, chiều lại đạp xe về nhà, như một công chức mẫn cán. Thế rồi sau đó anh dọn nhà lên ở khu tập thể Hòa Cường, lại về công tác tại Nhà xuất bản Đà Nẵng, và ở cái lò đào tạo ra khá nhiều nhà văn, nhà thơ này, anh hằng ngày có dịp gần với sách, rồi mê sách và “sa” vào nghiệp văn chương, không rứt ra được. Cho nên bây giờ, tuy đã nghỉ hưu, mà anh đâu có “được” nghỉ ngơi, cứ “phải” cặm cụi viết, in liên tiếp mấy tập truyện ngắn, và hôm nay đây, trong tay tôi là tập hồi ức chiến tranh với tựa đề Người lính...

 

Khác với những tập truyện ngắn đã xuất bản, ở Người lính, Hoàng Văn Cung lấy chính cuộc đời “ra đi làm lính” của mình để làm cốt truyện, qua đó ghi lại thời thơ bé ở quê hương Thái Bình, cuống rốn của vựa lúa đồng bằng Bắc Bộ, nơi có con sông Trà Lý êm ái, hiền hòa... Anh nhớ lúa, nhớ khoai, nhớ ao đình, nhớ những lần cùng mấy đứa bạn đi bắt cào cào, đi câu tôm; nhớ trường, nhớ lớp, nhớ cô giáo chủ nhiệm, nhớ những gương mặt bạn bè và bóng dáng những người bạn gái từng làm trái tim anh rung động. Nhưng nhớ nhất vẫn là hình bóng cha mẹ già và những người thân trong gia đình.

Từ một học sinh vừa trúng tuyển vào đại học thì được gọi nhập ngũ, vào miền Nam chiến đấu, Hoàng Văn Cung từ một thư sinh đã trở thành người lính, rắn rỏi, cứng cáp, vượt qua những gian khổ chồng chất, chịu đựng được cái đói, những cơn sốt rét rừng tím tái để gắn bó, sống chết với đồng đội. Trong Người lính, bạn đọc sẽ thấy tác giả dành rất nhiều trang viết về những người cùng quê, cùng đi lính một ngày, có cùng những buồn vui của tuổi trẻ. Bạn đọc cũng sẽ thấy ở đây có những người lính già, những “thủ trưởng” đơn vị giàu kinh nghiệm, nghiêm khắc đấy mà thương lính trẻ như thương con mình.

Bạn đọc cũng sẽ thấy những tấm lòng của những bà mẹ Tây Nguyên, Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ... đối với những người lính miền Bắc vào Nam chiến đấu như thế nào. Tất cả đều nói lên tình nghĩa đồng bào, lòng nhân ái, bao dung, làm toát lên tinh thần “nhiễu điều phủ lấy giá gương”, “thương người như thể thương thân” trong truyền thống đạo đức văn hóa của dân tộc ta, bởi tất cả đều có chung một mục tiêu cao cả là thống nhất trọn vẹn non sông đất nước. Tất cả đều quyết tâm làm nên một vòng tay lớn nối liền Bắc Nam.

Đã có biết bao nhiêu tác phẩm văn học viết về đề tài chiến tranh trên đất nước mình, và tương lai sẽ còn nhiều tác phẩm văn học viết về đề tài này. Mỗi nhà văn có cách đóng góp của riêng mình, và với ý nghĩ đó, có thể nói,  Hoàng Văn Cung đã đóng góp những tư liệu sống, có thực của chính cuộc đời anh và đồng đội-những người lính trẻ của vùng đồng bằng Sông Hồng trong đoàn quân “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” trong những năm tháng đỉnh cao, quyết liệt nhất của cuộc chống Mỹ.

Vì vậy, khi đọc Người lính tôi sắp sẵn cho mình một tâm thế là không câu nệ về văn chương chữ nghĩa, mà tìm trong những trang chữ của anh về những “chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt, xếp bút nghiên theo việc đao cung”, tuổi 20, tươi rói phù sa của những dòng sông Bắc Bộ ngày ấy đã nghĩ gì và làm gì trên chiến trường miền Nam trong những năm đầy thương đau và hào hùng của cả dân tộc? Và tôi vỡ ra rằng, ở chừng mực nào đó, bằng những lời lẽ chân thực và cảm động, tác giả Người lính đã trả lời cho chúng ta bằng chính ký ức của mình và đồng đội của anh.

Tôi không muốn tường thuật lại những diễn biến của câu chuyện mà tác giả Người lính đã kể; nó chắc chắn sẽ không đầy đủ bằng người đọc trực tiếp cảm nhận qua tác phẩm. Tôi chỉ nói một điều mà mình tâm đắc và cảm động nhất trong tập sách mới này của Hoàng Văn Cung, đó là những đoạn anh miêu tả về người mẹ của anh, mộc mạc, thầm lặng và thương con. Khi tiễn anh vào bộ đội, mẹ là người cuối cùng còn đứng để nhìn theo bóng anh khuất lấp trên đường. Khi chiến tranh kết thúc, mẹ là người bằng trực giác linh cảm ngày anh về và là người trước nhất trong nhà đón anh.

Ngày anh về, mẹ “như từ trên trời rơi xuống”, nắm tay anh kéo đi: “Con ơi! mọi người đang đứng đợi đầy nhà đầy sân chờ nhìn thấy con. Con về ngay với mẹ”. Nhưng anh về, cũng chỉ là về phép, người lính–con của mẹ–lại lên đường, và mẹ, vóc dáng gầy guộc, bơ vơ, khuất lấp, lại là người còn lại cuối cùng trong buổi tiễn anh đi: “Hình như có bóng dáng của mẹ tôi đứng xa xa dưới trời mưa rét; đúng là mẹ tôi...”. Và, “chiếc xe lao ra ngoài đường lớn rời khỏi trạm quân ra quân vào, tôi nhìn theo bóng mẹ mờ dần dưới làn mưa...”.

Bùi Xuân